CHUYỆN THIÊN THU II
Chiếc xuồng từ từ theo lòng lạch của bãi chúi mũi xuống sông Gành Hào đang chảy xiết… Mẹ tôi ngồi phía sau lái, hai tay vịnh be xuồng với dáng điệu lo lắng, không yên.
Nếu tôi không kềm nổi để nó lao mạnh xuống dòng sông thì chắc là xuồng sẽ bị chìm. Dù mẹ tôi biết lội, nhưng nhìn dòng sông cuồn cuộn chảy ai cũng thấy sợ hãi.
May quá! Do sức nặng của mẹ tôi và tôi nên mũi xuồng cất lên, nước không vô. Xuồng bung ra sông Gành Hào, trôi băng băng theo dòng nước.
Vì chưa quen điều khiển xuồng trên sông lớn nên tôi lính quýnh… Gây chèo xong thì xuồng trôi xuống phía hạ lưu cả trăm mét.
Từ đó chèo nước ngược lên kinh xáng Đội Cường gần một tiếng đồng hồ!
Ai có đi nước ngược trên sông Gành Hào mới biết! Chèo lia lịa, nhưng nhìn vô bờ thì hình như xuồng đứng yên một chỗ ! Nhất là gặp mùa mưa , nước ròng đổ ra biển; nước vừa chảy vừa đổ nghe ào ào…Gặp các cột đáy giữa sông, nước rẽ thành dòng xoáy mạnh, tiếng kêu ồ ồ thật khủng khiếp!
Vô đến kinh xáng Đội Cường thì trời đã xế bóng, nhưng nước đã chảy lớn, xuôi dòng đi cũng nhanh, nên 9 cây số kinh xáng đi mất chừng một giờ. Qua Nhựt Nguyệt rồi đến Chà Là thì trời đã về chiều. Xuồng bán vàm đổ ra đông nghẹt.
Ở những chợ Vàm lớn như Chà Là, Cái Keo, Ngã Bảy… người ta dùng xuồng bán hàng hóa, thức ăn cho dân đi ghe thương hồ. Thôi thì đủ cả thứ từ những món thông dụng của một tiệm tạp hóa như kim, chỉ, tương, chao, đường, đậu… đến đồ hàng bông và… thức ăn như hủ tiếu, bún cà ri, bánh bò, bánh tét, đến cơm đủ loại…
Hình ảnh các chợ vàm ngày nay còn rất hiếm. Thật ra nó là một nét văn hóa trên sông nước không có cái chợ nào có thể thay thế được.
Tôi còn nhớ, thuở nhỏ, con sông trước nhà tôi thường có những chiếc ghe "chệt" bán hàng xén. Cả gia đình họ sống trên chiếc ghe không lấy gì làm lớn lắm, nhưng hàng hóa thì rất nhiều… Tôi thường níu vạt áo mẹ tôi theo xuống ghe hàng xén của chú "chệt" để xin mua bánh tai heo… Đặc biệt dưới các ghe hàng xén ấy có một mùi thơm thơm mà tụi tôi gọi là "mùi bánh tai heo"…
Sau nầy, cho đến bây giờ, không khi nào tôi còn được nghe cái mùi đặc biệt đó… Có lẽ nó thất truyền cùng với những chiếc ghe bán hàng xén theo sông…và hình ảnh một cậu bé con nắm vạt áo mẹ, đôi chân nhỏ bé lần theo cây đòn dài xuống ghe hàng xin mua kẹo gừng hay bánh tai heo cũng không bao giờ còn thấy nữa…
Tôi đói quá. Hai mẹ con cho xuồng cặp vào một chiếc xuồng vàm bán bún cari chim.
Hầu như những người đi ghe thương hồ trên sông Bảy Háp đều thích món ăn đặc sản nầy, bởi thịt chim ở đây là chim mới ra ràng bắt ở sân chim Ván Ngựa thịt mềm và rất ngon. Và tôi, có thể nói đó là một trong những bữa ăn ngon nhất trong đời!
Cảnh sông nước mênh mông, buổi chiều gió nhẹ, cặp be xuồng bán vàm ăn một tô bún ca ri chim nóng thật là tuyệt!
Qua Ván Ngựa, đến Điền Quốc Gia thì trời đã về chiều. Bầu trời xám xịt như chì báo hiệu một cơn mưa không thể tránh khỏi .
- Ráng lên con! - Mẹ tôi động viên - Tới Cái Keo có mưa mình sẽ tìm chỗ đụt.
Nhưng chưa tới Cái Keo thì trời đổ mưa ào ào… giông gió ầm ầm! Một cơn mưa to hiếm thấy, làm cho hai mẹ con tôi ướt hết cả. Mặc dù có vải che mưa, nhưng vì cơn mưa quá lớn và dai lại có giông, mẹ tôi thì càng ướt nhiều hơn vì bà phải liên tục tát nước.
Tới Cái Keo thì trời đã tối. Mưa vẫn còn nặng hạt. Gió thổi mạnh. Dòng sông cuồn cuộn sóng.
Vàm sông Cái Keo là một vàm sông lớn của sông Bảy Háp. Tại vàm, bên nầy nhìn sang bên kia bờ chỉ thấy ngôi nhà nhỏ xíu. Nhiều hôm có giông mưa, xuồng ba lá không ai dám băng ngang vàm.
Tôi lạnh run, miệng đánh bò cạp. Hai mẹ con ghé xuồng vào một cây cầu của một tiệm buôn ở bên nầy vàm.
Mẹ tôi xin chủ quán tạm trú bên hàng hiên để trông xuồng cho tiện.
Phố chợ đã lên đèn từ lâu.
Nước lớn đầy sông gần ngập cây cầu thang chuồi trên bến. Tôi cột xuồng dây dài, phòng khi nước ròng xuồng bị treo, rồi đem ván sạp, dầm, chèo lên hàng hiên tìm chỗ nằm. Có một chiếc chiếu trải xuồng nhưng đã ướt từ chiều, không dùng được.
Hàng hiên là một nhà sàn rộng chừng hai thước, lót bằng cây róng, chỉ có mái che, không có vách nên gió lùa thốc vào mang theo những hạt mưa lạnh buốt.
Mẹ trải tấm ny lon duy nhất trên sạp và bảo tôi nằm nghỉ tạm.
Tôi vắt quần áo cho thật khô nước rồi mặc vào.
Hai mẹ con ngồi bó gối nhìn ra dòng sông cuộn sóng.
Đói quá, nhưng không có gì ăn… Chợ Vàm Cái Keo đêm ấy không có một xuồng bán quà rong nào cả. Hầu như tất cả các ghe thương hồ xuôi ngược đều tìm bến đậu. Mưa gió thế nầy chẳng ai chèo chống nổi.
Hai mẹ con đành ngồi co rút chịu đói lạnh, chờ qua đêm.
Mẹ tôi bàn :
- Hay là một chút nữa tạnh mưa mình đi lần lần. Từ đây vô Kinh Ba nghe nói cũng gần…
Tôi hiểu sự nôn nóng của mẹ khi chỉ còn một quãng ngắn nữa là đến nhà chị tôi, nhưng tôi chưa từng đi con đường nầy bao giờ, chỉ nghe kể đường từ Vàm Cái Keo vô tới Kinh Ba đến cả chục cây số, sông sâu, nước chảy rất mạnh, hai bên là rừng, không nhà không cửa… trời lại tối đen như mực, ngửa bàn tay còn không thấy…Mưa giông thế nầy làm sao đi?
Tôi rùng mình ớn lạnh:
- Thôi má à, mình tạm trú ở đây chờ sáng nghen? Đường vô Kinh Ba khó đi lắm, ban đêm thì biết hỏi đường ai?
- Má thiệt vụng tính quá - Má tôi nói - Phải hồi chiều mình mua một ít bánh tét để bây giờ ăn đỡ…
Tôi biết. Song ban chiều, mọi suy nghĩ đã choán cả tâm hồn mẹ tôi là con đường đi tới Kinh Ba, nơi có đứa con và mấy đứa cháu mà bà đang thiết tha mong nhớ. Mọi việc khác đối với bà đâu có gì quan trọng?
Bà chuyển sang giọng lo lắng: "Chà! không biết ở nhà tụi nhỏ ra sao? Má quên nhắc tụi nó nhốt vịt, gài cửa sau… Mưa gió thế nầy không biết nó có nhớ bận áo ấm cho con Út không nữa…
Ôi! Tấm lòng của mẹ ấp ủ rộng lớn biết bao nhiêu! Nhưng thực tại của cuộc đời đâu có thể lúc nào cũng chìu theo ý mẹ được?
Tấm lòng đó đến hôm nay tôi mới hiểu thì mẹ tôi không còn nữa…
Người đã ra đi vĩnh viễn mang theo tất cả nỗi lo âu, khắc khoải; những nỗi nhớ thương đeo đẳng khôn nguôi …
Chết là hết! Là quyển sổ đời đã ghi đến trang chót và đã đóng lại! Mọi nỗi mừng vui, lo âu khắc khoải, mọi nợ áo cơm, tình yêu và nỗi nhớ cũng kết thúc ở đây! Người ra đi tưởng chừng như thanh thản, bỏ lại sau lưng tất cả những gì từng làm bận bịu, ray rứt, không yên…Phải chăng như thế là nợ đời đã trả xong?
Nhưng hỡi ôi! Đối với mẹ tôi, mỗi lần chạnh nhớ về Người sao tôi vẫn đinh ninh rằng Người không sao quên được những hưng vong, những thành đạt hoặc những chìm nổi của các con… Cũng như hôm đó, ở Vàm Cái Keo trong một đêm mưa giông mà lòng mẹ vẫn xốn xang về một đứa ở miệt rừng và những đứa còn lại đang ở trong ngôi nhà ấm cúng …
Cầu trời cho mẹ được an giấc ngàn thu! Và cầu trời cho anh chị em chúng con mãi nhớ về Người!
*
… Khi gia đình tôi dọn nhà về Cần Thơ, tôi còn nhớ, một lần tôi đi chơi đêm về khuya, khi đến một cây cầu cách nhà khoảng 100 thước là con đường dẫn vào nhà , tôi thấy mẹ tôi đang đứng đó - lúc ấy đã quá 11 giờ đêm - Lòng tôi bồi hồi cảm động và đầy hối hận , tôi vịnh vai mẹ cùng đi vào nhà , bỗng tôi giật mình vì vai áo mẹ ẩm ướt sương đêm ! Bà chỉ nói thấy sốt ruột và chỉ mới ra đón tôi thôi… và mẹ không trách tôi tiếng nào cả…
Song tôi hiểu tấm lòng rộng lớn của Người nên từ đó không bao giờ tôi đi chơi về khuya nữa …
(Đoạn nầy tôi có trích đăng trên blog của tôi :
http://thedung1952.multiply.com/journal/item/113/MOTHERS_DAY_1)
Chuyện nhỏ như vậy xảy ra đã mấy mươi năm rồi, song nhiều lần đi đâu về khuya tôi vẫn còn nhớ như in bóng hình mẹ thơ thẫn đứng đợi tôi trên cầu dưới sương khuya… Bây giờ tất cả đã quá xa … đã chôn vùi theo cát bụi thời gian. Hoạ chăng chỉ còn trong giấc mộng!
… Một lần khác, khi tôi trở lên Sài Gòn học sau kỳ nghỉ hè, mẹ tôi tiễn tôi ra tận xe lôi ngoài cầu Xưởng, Bà cứ bịn rịn niếu chiếc xe và mãi cứ dặn dò tôi đủ mọi điều làm bác lái xe cũng không nỡ chạy… Cuối cùng mẹ lục trong túi áo và đưa cho tôi chai dầu gió Nhị Thiên Đường nói rằng để đi xe xức ngừa gió mái… Xe chạy đã xa, tôi ngó ngoái lại thì thấy mẹ tôi vẫn còn đứng đó trông theo!...
… Một lần khác nữa, mẹ tôi muốn đi lên Sài Gòn, mẹ nói với ba tôi là đêm nằm chiêm bao thấy tôi vọt xe vespa ra đầu hẻm quá nhanh và bà rất sợ tôi bị đụng xe…! Mẹ nói phải gặp tôi để dặn dò chạy xe cẩn thận…
Giờ đây tôi đi sớm về khuya không còn ai lo âu, đợi chờ tôi nữa…
Cầu trời cho mẹ an giấc ngàn thu dưới suối vàng! và con ở đây, dưới ánh đèn muôn màu của đô thị phồn hoa con vẫn nhớ mãi về một bóng hình ngày ấy khôn nguôi…Và Chị, các Anh, em con chắc cũng khoắc khoải nhớ thương Người! Nhớ về một thuở xa xưa tuy vất vả nhưng thật là thân thương, đầm ấm xiết bao!...
*
Mẹ tôi dỡ trầu ra ăn, còn tôi tạm ngã lưng nằm co rút trên tấm sạp xuồng lót bên hàng hiên .
Trời tối như mực. Phố chợ đã ngủ yên.
Tôi vừa thiu thiu ngủ bỗng giông gió lại nổi lên ào ào… và mưa trút xuống như thác đổ. Mưa tạt thốc vào hàng hiên làm hai mẹ con tôi lại ướt loi ngoi…
Mưa chừng nửa giờ thì chiếc xuồng chìm nghỉm. Tôi phải cởi áo, khoác vải đi mưa xuống lắc xuồng. Nước đã chảy ròng lòi mấy bậc thang cầu dưới bến sông.
Một lần nữa tôi lại vắt quần áo cho thật ráo nước, mặc vào.
Đến nửa khuya, nước ròng sát trời mới ngớt mưa, nhưng gió vẫn thổi ào ào, lạnh buốt.
Tôi mệt mỏi quá nên nằm co rút lại, ngủ vùi. Bên cạnh mẹ tôi vẫn ngồi ăn trầu dõi mắt nhìn ra bầu trời tối đen.
Mẹ ngồi suốt đêm canh xuồng cho tôi ngủ…
Một đêm như thế có bao nhiêu sợi tóc bạc điểm thêm cho cuộc đời mẹ vốn đã bao năm vất vả với đàn con?
Tôi không biết, và nhiều người trong gia đình tôi cũng không biết.
Nhiều lần tụ hội gia đình, nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa cũ, chúng tôi chỉ gợi lại những giây phút êm ấm, vui tươi, những đoàn tụ sum vầy, những mùa lúa chín ngát hương thơm mùi cốm dẹp; những đêm giông bão cả nhà quây quần bên bếp un tỏa mùi khói thơm của cây con cúi vấn chặt…
Ít khi nào chúng tôi nhắc nhở những bước gian nan, những nỗi nhớ thương khắc khoải, những xa cách biệt ly …
Chúng ta thường sống với những kỷ niệm êm đẹp trong đời. Ít khi nào ta lại sống với những hưng vong, những bước gian nan đầy nước mắt…
Ký ức những nỗi nhớ niềm thương, những đau buồn thương tiếc vắt kiệt trái tim ta thì sao ta lại hay quên? Hay chăng vì quá u sầu mà ta không muốn gợi nhớ?
Hồi ấy trong trái tim nhỏ bé của tôi đã mang một dấu ấn khó phai mờ, trong niềm vui thơ dại của tuổi nhỏ đã xen vào một nỗi niềm cảm thương man mác…
Nhớ buổi chiều hôm ấy thấy tôi quá mệt mỏi mẹ tôi bảo ghé vào một đám dừa nước đốn hai tàu lá cắm hai bên cột chèo làm bườm chạy đỡ để tạm nghỉ tay.
Ngồi giữa xuồng bà vừa têm trầu ăn vừa kể lể:
- Má nghĩ mà thương chị con đứt ruột. Hồi còn con gái sống chẳng có ngày rảnh rang, thong thả: nào gà vịt nào heo cúi… và một bầy em… Giờ có chồng ở cái miệt nầy chắc cũng khổ…
Trong đôi mắt hiền từ của mẹ hiện lên một nỗi buồn man mác…
Nhiều năm sau nữa, khi có những điều bất hạnh xảy ra với chị tôi, Người đều nhắc lại ý trên để mà thương tiếc.
Lúc ấy tôi còn thơ dại quá nên chưa thấy hết được cả một tấm lòng.
Giờ đây ôn lại chuyện trăm năm cũ, tôi thấy lòng mình ray rứt không yên .
Anh chị và các em tôi có nhiều người trên đầu tóc đã điểm sương…Thời gian trôi đi nhanh quá, và mỗi khi tụ hội sum vầy thì nhìn lại người mẹ chúng ta không còn nữa. Người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng sao tôi vẫn mãi đinh ninh rằng nỗi thương tiếc, lo toan cho cuộc đời của từng đứa con đối với mẹ tôi vẫn đeo đẳng Người mãi không thôi…
Nguyễn Du đã nói:"Sống là thể phách, thác còn tinh anh "
Phải chăng câu đó phù hợp với câu chuyện sau đây về mẹ tôi ?
Mấy năm trước, có một đêm mùa hè, cha con tôi đang ngồi quây quần ở nhà trước thì một con bướm rất to bay vào nhà, lượn lờ chỗ nầy chỗ kia, sau cùng bướm đậu trên bát lư hương ở bàn thờ mẹ tôi. Chúng tôi rất lấy làm ngạc nhiên vì nhà tôi ở quận 3 thuộc khu dân cư, không hề có một bóng cây xanh thì làm sao có bướm bay vào nhà?
Mấy đứa nhỏ lấm lét nhìn và kháo nhau:
- …Bà nội về …
… Và chúng đi tắt quạt trần, đốt nhang van vái Bà …
Lạ một điều là bướm vẫn cứ đậu trên bát hương, không bay đi, dù bọn trẻ đến cắm nhang…
Sáng ra thì bướm đã đi rồi. Bọn trẻ kháo nhau nhiều lắm và tôi cũng rất băn khoăn vì hiện tượng trên.
Và không biết là vì ngẫu nhiên hay có một sự linh thiêng nào đó mà trưa hôm ấy thì Ba tôi lên…
Đó là mùa hè năm 1989…
Đến hè năm 1994, một sự việc y hệt như thế lại xảy ra, Tôi thật không muốn tin, nhưng những sự trùng hợp lạ lùng đó làm tôi suy nghĩ mãi…
Một điều đáng nói là Ba tôi rất ít đi Sài Gòn, mỗi năm một hai lần ông lên khám bệnh hay thăm chị em chúng tôi.
… Một lần khác, đêm tôi nằm chiêm bao thấy mẹ tôi, tôi không thấy mặt bà, chỉ thấy bà mặc một cái áo màu xám khói nhang, ngồi quay lưng lại phía tôi, trong vía tôi biết rằng mẹ nói lên thăm chúng tôi…
Sáng hôm sau tôi nói với cả nhà là hôm nay có bà nội lên thăm, chiều nay mình sẽ làm cơm cúng bà…
Trưa hôm ấy khi tôi còn đang làm việc trong cơ quan thì thằng cháu con của chị tôi gọi điện vào nói có ông ngoại lên dặn tôi chiều tan sở vô…
Tôi ớn lạnh cả người! Lần trùng hợp thứ ba nầy không thể nào gọi là ngẫu nhiên được nữa… Rõ ràng Người vẫn còn quấn quít đâu đây, không thể rời xa chúng tôi: lúc nào cũng thương tiếc, lo toan bận bịu với những sự hưng vong của cuộc đời từng đứa con… và luôn theo dấu từng bước chân đi của ba tôi…
… Con bướm huyền thọai đó cũng đã có lần vào nhà chị tôi. Chị nói rằng khi chị thấy có hiện tượng lạ, chị liền đốt hương van vái rằng: "nếu phải là má về thăm chúng con thì xin đến đậu trên hình của má"… và kỳ diệu thay! Bướm đã lượn lờ bay và đến đậu trên hình má tôi…
… Và ở Cần Thơ sự kiện về con bướm cũng được mấy đứa em tôi nói đến rất nhiều…
Ôi! phải chăng "Sống là thể phách , thác còn tinh anh" là có thật?
Mẹ ơi! Cầu trời cho mẹ được an giấc ngàn thu! Ở đây chúng con tuy đã mất mẹ nhưng lúc nào chúng cũng thấy mẹ ở cạnh chúng con!...
*
Gà vừa gáy hiệp đầu là mẹ đã gọi tôi dậy.
Bầu trời quang đãng đầy sao.
Nước dưới sông đã đầy mà. Tôi nghĩ có lẽ đã ba hoặc bốn giờ sáng rồi.
Chợ Vàm Cái Keo nhiều quán ven sông đã lên đèn. Cầu tàu có tiếng máy nổ. Cảnh nhộn nhịp của một cái chợ Vàm bắt đầu.
Mẹ tôi bàn:
- Trời gần sáng rồi, sẵn nước lớn mình thả lần vô vàm, tới đâu hỏi thăm đường đến đó.
Chèo nước ngược khoảng 500 thước thì quẹo vô vàm. Chiếc xuồng bị luồng nước lớn hút mạnh và lao đi…
Phố chợ bỏ lại phía sau…
Trước mắt là dòng sông chảy xiết, đen ngòm, vắng tanh. Hai bên bờ là rừng lá dừa nước xen lẫn với những cây mấm, cây bần gie ra, tạo nhiều hình dáng như những người đứng ủ rũ ven sông…
Im vắng quá! Mái chèo khua dòng nước nghe vang vang, rờn rợn…
Xuồng lao nhanh trong đêm tĩnh mịt đó và tôi chèo như trong cơn mê, không biết đâu là bến đâu là bờ.
Mẹ tôi ngồi ở giữa xuồng nhìn ra phía trước, trầm ngâm, song tôi biết tâm trạng của bà cũng giống như tôi.
Ngồi chờ thì sốt ruột, đi thì không biết có đúng đường hay không? Vì đây là xứ lạ quê người, sông sâu nước chảy lại không có bóng dáng một ngôi nhà hay một chiếc xuồng đi chợ khuya nào cả.
Đi chừng một giờ thì đến một ngã ba rộng mênh mông, nước chảy xiết làm thành một con xoáy nước ở giữa rút ồ ồ… Tôi nghe ớn lạnh, mọc ốc đầy mình, vội rà xuồng lại. Biết đi theo ngã nào đây?
Do động tác kềm xuồng quá mạnh nên quay chèo bị đứt, tôi nhào tới trước, xuồng chòng chành muốn lật úp! Tôi gần như không còn khả năng điều khiển xuồng nữa nên nó bị hút vào xoáy nước, xoay tròn như chong chóng… Tôi luống cuống suýt làm chìm xuồng.
Khi đưa chiếc xuồng được vào bờ, tôi cắm thử cây chèo, nước ngập tới guốc chèo mà chưa đụng đất! Ối chao! sát bờ mà nước sâu đến trên hai thước!
Chực nhìn lên tôi rợn cả tóc gáy: Một ngôi chùa hoang nằm sừng sửng tại ngã ba! Quang cảnh huyền bí lại càng tăng thêm vẽ rùng rợn!
Ai ngờ giữa chốn hoang vu nầy lại mọc lên một ngôi chùa đổ nát!
Ghé xuồng vào một buội dừa nước, định thần lại xong, hai mẹ con quyết định đi theo hướng tay trái, vì sông ở đó lớn hơn nước chảy mạnh hơn. Thật ra đó cũng chỉ là đi hú họa chớ cũng không có cơ sở gì chứng tỏ đó là đường đi Kinh Ba!
Đi một đoạn sông nữa thì tôi thấy từ xa có ánh đèn trên sông. Chắc là xuồng của người địa phương đi chợ sớm.
- Chú ơi! làm ơn cho hỏi, đường nầy có phải đi Kinh Ba không? - Tôi hỏi to.
- Phải!
Người đi xuồng chỉ đáp được có thế thì xuồng đã đi xa.
Đi một đổi nữa, thấy có một cái bến sông, tôi ghé xuồng vào và tìm nhà hỏi thăm đường.
Xứ sao là xứ lạ lùng! Từ bến sông lên tới nhà có đến hai trăm thước!
Sau khi hỏi thăm đường một cách chắc chắn, tôi và mẹ tôi mới an lòng đi tiếp.
Từ đó đến nay, thời gian trôi qua đã mấy mươi năm, nhưng mỗi khi nhắc lại chuyện xưa tôi không làm sao quên được con sông, cái chùa hoang và cái ngã ba nước xoáy dễ sợ ấy!
Sau nầy hỏi lại tôi mới biết đó là một cái chùa Cao Đài không biết có từ đời nào, đã bỏ hoang từ lâu, chỉ còn trơ lại cái nóc loang lỗ và cái cột cờ!
*
Rạch Vọp là một con rạch đặc biệt. Hai bên lá dừa nước gần giao với nhau, ở xa trông như một cái xẻo con hay là một bến sông bình thường. Nhưng tôi cũng đâm xuồng vào với hy vọng tìm nhà hỏi thăm đường.
Nhưng may quá! Tôi đã đi vào đúng Rạch Vọp và ghé đúng bến nhà chị tôi.
Lúc ấy trời mới vừa hửng sáng.
Con đường Từ Ba Dinh đến Rạch Vọp là thế đấy!
*
Ngày xưa, lúc mẹ tôi còn sinh tiền, chuyến đi khổ cực, gian nan ấy tôi đã quên đi. Tôi thấy cũng không có gì đáng nói, thậm chí nhiều lúc ký ức như đã bị phai mờ.
Giờ đây mẹ tôi không còn nữa, anh em tôi mỗi đứa đều có gia đình riêng, tản lạc khắp nơi, đứa nào cũng bị cuộc sống quay cuồng cuống hút đi theo nhịp bước của thời gian nên ít có dịp hàn huyên về những chuyện ngày xưa cũ… Và hôm nay tôi ngồi đây một mình, nhớ về một thời thơ ấu với những buồn vui, khổ cực, gian nan nhưng rất nhiều hạnh phúc, đầm ấm thân thương ấy với nhiều nuối tiếc, bâng khuâng…
Ký ức ấy giờ đây đậm nét hơn bao giờ hết, nhưng mẹ tôi đã đi xa… và bởi thế những tiếc thương càng đong đầy trong mắt; bao nhiêu ưu tư cứ đeo đẳng tôi mãi không thôi… Giờ đây tôi không biết ai là người đồng điệu để cùng ngồi lại gợi nhớ về Người, về những gì ấm êm của ngày xưa cũ…
Tôi mong mõi Anh, Chị Em và các cháu đọc những dòng chữ nầy để có những giây phút nhớ đến Người…
Hòa Hưng , tháng 9 năm 1996
Biên tập lại tháng 8 năm 2002