Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2009

MA SOEUR


            

     MA SOEUR

                                 Nguyễn Tất Nhiên

Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Như mưa đời phất phơ
Chắc ta gần nhau chưa

Tay ta từng ngón tay
Vuốt tóc em lưng dài
Đôi ta vào quán trưa
Nhắc nhau tình phôi pha

Em mang hồn vô tội
Đeo thánh giá huy hoàng
Còn ta đầy sám hối
Mà sao vẫn hoang đàng

Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Đưa em về dưới mưa
Có nhau mà như xưa

Em hiền như Ma soeur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta bệnh hoạn
Ma soeur này Ma soeur

Ta nhờ em ru ta
Hãy ru tên vô đạo
Hãy ru tên khờ khạo
Masoeur này Ma soeur

Đưa em về dưới mưa
Chiếc xe lăn dốc già
Đưa em về dưới mưa
Áo em bùn lưa thưa

Đưa em về dưới mưa
Hỡi cô em bé nhỏ
Ôi duyên tình đã qua
Có bao giờ không xưa?

Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa
Như u tình đã qua
Thấm linh hồn Ma soeur


  

Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2009

TRÚC ĐÀO









       
  TRÚC ĐÀO
  
             Nguyễn Tất Nhiên





    
 Trời nào đã tạnh cơn mưa
      Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn
      Nhà người tôi quyết không sang
      Thù người tôi những đêm nằm nghiến răng
      Quên người - nhất quyết tôi quên
      Mà sao gặp lại còn kiên nhẫn chào

                         *

   Chiều xưa có ngọn trúc đào
   Mùa thu lá rụng bay vào sân em
   Mùa thu lá rụng êm đềm
   Như cô với cậu cười duyên dại khờ
   Bởi vì hai đứa ngây thơ
   Tình tôi dạo ấy là ... ngơ ngẩn nhìn
   Thế rồi trăng sáng lung linh
   Em mười sáu tuổi giận hờn vu vơ
   Sang năm mười bảy không ngờ
   Tình tôi nít nhỏ ngồi mơ cũng thừa
   Tôi mười bảy tuổi buồn chưa
   Đầu niên học mới dầm mưa cả ngày

                          *

      Chiều nay ngang cổng nhà ai
      Nhủ lòng tôi chỉ nhìn cây trúc đào
      Nhưng mà không hiểu vì sao
      Gặp người xưa lại nhìn nhau mỉm cười ?

 

                                                          (1973)


                        (Mời các bạn nghe Duy Quang hát bên music)

 

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2009

LẠI NÓI VỀ PHẠM DUY




Bạn nào thích nghe nhạc PD và có quan tâm đến nền âm nhạc của nước nhà thì nên đọc bài nầy .

Để biết rõ hơn xin đọc trước entry  Nhạc Phạm Duy





     

     Bà mẹ Gio Linh

                                                       

                        Thiếu một tấm lòng

            

Thư của Nguyễn Đắc Xuân gởi nhạc sĩ Phạm Tuyên sau khi đọc bài báo “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng (4-2009)

 

                Huế, ngày 22 tháng  5 năm 2009

               Anh Phạm Tuyên kính mến,

           Có lẽ anh rất bất ngờ khi nhận được cái thư khá dài nầy của tôi. Trước tiên tôi xin lỗi đã làm mất thì giờ lão nhạc sĩ rất quý mến của người bạn vong niên ở Huế của anh.   

          Vừa rồi tôi được đọc bài báo “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” trên An Ninh Thế Giới Cuối Tháng (4-2009) của ba anh Trọng Bằng, Phạm Tuyên và Hồng Đăng, tôi cảm thấy có sự bất bình thường, định viết một bài phản biện gởi cho báo, nhưng nghĩ lại thấy như thế không tiện nên ngồi gõ cái thư nầy gởi cho anh và qua anh có thể trao đỏi ý kiến của tôi với hai anh bạn của anh. Chuyện muốn nói với  ba người mà bắt một mình anh phải nghe quả là không công bằng. Mong anh thứ lỗi.

           Anh Phạm Tuyên kính mến,

          Cảm tưởng đầu tiên của tôi: Bài báo của các anh không có điều gì mới về tiểu sử trích ngang của nhạc sĩ Phạm Duy. Trong bộ sưu tập của tôi, tôi có hàng trăm bài của các lực lượng lưu vong chống Cộng đã dội “gió tanh, mưa máu” lên Phạm Duy vì cái tội Phạm Duy hưởng ứng Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản VN. Và, tôi cũng có không ít những bài viết phê phán Phạm Duy ở ngay trong nước Việt Nam trước và sau 30-4-1975. Phạm Duy là một nhạc sĩ, một người bình thường, chứ không phải là một kẻ sĩ. Con người bình thường thì có khối chuyện hay và cũng lắm chuyện dở. Báo chí, sách vở và chính Phạm Duy đã, đang và cũng sẽ viết tiếp những chuyện dở của Phạm Duy. Trong hồi ký Phạm Duy đã viết nhiều chuyện dở của Phạm Duy mà những ai chưa đọc hồi ký ấy thì không thể biết được. Nhưng viết những chuyện dở ấy để hiểu mặt phải mặt trái của một nhạc sĩ lớn chứ không phải viết vì đố kỵ, vì trâu cột ghét trâu ăn giống như vụ hoạ sĩ Trịnh Cung viết về chuyện “tham vọng chính trị” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn  vừa công bố hồi đầu tháng 4-2009 vừa qua. (Chú thích của THD: Xem thư Nguyễn Đắc Xuân gửi Trịnh Cung.)  Tôi còn nhớ, năm 2002, trong một cuộc họp mặt của các Cựu Thiếu sinh quân VN, có cả con gái và con rể (làm Phóng viên báo SGGP) của Tướng Nguyễn Sơn với nhạc sĩ Phạm Duy tại phòng hội trường Sư Phạm đối diện với Đài Truyền hình đường Đinh Tiên Hoàng TP HCM. Nhiều Cựu Thiếu sinh quân từng hát bài Thiếu sinh quân của Phạm Duy trong vùng kháng chiến Khu IV, đã tỏ sự bất bình về chuyện Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Trả lời, Phạm Duy đã nói rõ lý do anh “về thành”: Vì anh và gia đình không chịu được hoàn cảnh quá cực khổ lúc ấy. Về thành anh rất đau đớn mỗi khi nhận được những oán trách của anh em kháng chiến dành cho anh. Để chứng tỏ Phạm Duy rất biết, rất quan tâm đến những oán trách về chuyện “về thành” của anh, anh đọc thuộc lòng bài thơ của Huy Phương lên án anh một cách gay gắt. Anh cũng giới thiệu rằng anh đã viết rõ lý do vì sao anh “về thành” trong Hồi ký (Có lẽ lúc qua Pháp anh Phạm Tuyên đã đọc). Cả hội trường rất bất ngờ rồi vỗ tay vui vẻ, thông cảm cho hoàn cảnh của anh. Họ xem những chuyện buồn xưa như những kỷ niệm của một thời để cùng nhau hưởng hạnh phúc đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất và hội nhập. Sau đó mọi người mời Phạm Duy dự một buổi liên hoan cũng rất vui vẻ. Vô tình các Cựu Thiếu sinh quân đã đưa Nghị Quyết 36 của Trung ương vào cuộc sống thật nhẹ nhàng, đạt được kết quả tốt. Chính qua những buổi gặp gỡ cảm thông như thế đã giúp Phạm Duy vững tin vào chính sách hoà hợp và hoà giải dân tộc của Đảng và nhà nước Việt Nam. Sự tin tưởng ấy thúc đẩy Phạm Duy phải về nước sớm vào năm 2005. Không rõ Hội nhạc sĩ Việt Nam, các anh Trọng Bằng, Phạm Tuyên, Hồng Đăng đã có lần nào đưa tinh thần của Nghị Quyết 36 đến với nhạc sĩ Phạm Duy chưa? Nếu chưa thì các Đảng viên quan chức của Hội nhạc sĩ Việt Nam phải kiểm điểm vì các anh đã không thực hiện Nghị quyết của Đảng. Các anh đã hưởng ứng các nghị quyết của Đảng, sáng tác nhạc cổ vũ cho quyết tâm của dân tộc đánh thực dân Pháp, đánh Đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam. Các anh đã nhận được những phần thưởng cao quý nhất của nhà nước. Vậy các anh đã có hành động gì, sáng tác gì có giá trị cho công cuộc hoà hợp, hoà giải dân tộc xây dựng đất nước giàu mạnh chưa?

          2. Anh Phạm Tuyên, chỗ thân tình, “vừa là đồng chí vừa là anh em” tôi xin nói nhỏ với anh: Chúng ta lên án nhạc sĩ Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành”. Giả dụ lúc đó Phạm Duy không “về thành” mà cứ tiếp tục công tác cho đến ngày 30-4-1975, anh có tưởng tượng được tình cảnh Phạm Duy và gia đình anh ấy ở miền Bắc sẽ như thế nào không? Với tài năng và phong cách của Phạm Duy, Phạm Duy không thể trung thành tận tuỵ với chế độ như Phạm Tuyên, không thể nhẫn nhục, chịu đựng như Tô Hải, không thể chịu ngồi yên in bóng mình trên vách như Văn Cao. Tôi tưởng tượng đến những việc có thể xảy ra với Phạm Duy như sau: Sau 1954 về Hà Nội, Phạm Duy đứng về phía những văn nghệ sĩ mà lịch sử gọi là “Nhóm nhân văn” với Hoàng Cầm. Khi ấy Phạm Duy không thể tránh được tù tội, nếu không chết trong tù thì anh ấy sẽ âm thầm viết hồi ký, bút ký, truyện ký gì đó tố cáo bôi bác chế độ ta, tàn mạt gấp nhiều lần so với hồi ký của Tô Hải đang được cư dân mạng toàn cầu chăm chú đọc hiện nay. Phạm Duy “về thành”, phải chịu tiếng “phản bội kháng chiến” nhưng bớt được cho chế độ ta một sai lầm là “đã đày đoạ một nhân tài của đất nước”. Qua Pháp, anh đã đọc hồi ký của Phạm Duy chắc anh đã biết rõ: trong thời gian Văn Cao ngồi in bóng mình trên vách ở Hà Nội đợi kháng chiến thành công thì Phạm Duy “về thành” đã làm được những gì cho nền tân nhạc Việt Nam. Phạm Duy chịu tiếng “phản bội kháng chiến”, và anh “chuộc tội” bằng các nhạc phẩm Tình ca, Tình hoài hương, Thuyền viễn xứ, Đố ai, Nghìn trùng xa cách, Trường ca Con đường cái quan, Trường ca Mẹ Việt Nam , .v.v. [Theo thống kê của tôi có đến vài trăm bài được người yêu nhạc trước đây hay hát). Phạm Duy ra đi để trở về, chắc chắn tốt hơn những người ở lại tại chỗ rồi phải sống giả dối, chờ hưởng hết bổng lộc vinh quang của chế độ rồi quay đầu chưởi lại chế độ, chưởi đồng chí, đồng đội và chưởi luôn mình như đã xảy ra trong giới nhạc sĩ Việt Nam. Và có ai dám bảo đảm với Đảng trong ngăn kéo, trong ổ nhớ máy vi tính của anh em ta không còn những bút ký, hồi ký, tự bạch như của Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Khải, Tô Hải không? Các anh đã có “những điều cần phải nói” với những người đã tự thú và cả những người đang chờ cơ hội để bộc lộ mình chưa?

*

*     *

          3. Anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy rằng: “Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.  Anh nói hộ với anh Trọng Bằng, về đoạn trích trên, tôi xin trao đổi 4 ý kiến sau:        

          3.1. Anh Trọng Bằng, em anh Trọng Loan, về tuổi đời cũng như tuổi nghệ thuật âm nhạc đều thuộc lứa đàn em của nhạc sĩ Phạm Duy. Một nghệ sĩ đàn em viết về một nghệ sĩ đàn anh với giọng cửa quyền, gia trưởng, lệnh lạc như thế là khiếm lễ. Với tư cách là người từng lãnh đạo ngành âm nhạc Việt Nam, nếu cần cảnh báo cho nhạc sĩ Phạm Duy biết điều gì đó thì anh Trọng Bằng nên viết một công văn gởi riêng cho nhạc sĩ Phạm Duy hơn là viết trên báo chí. Vì viết trên báo chí người trong nước và ngoài nước đọc được họ có thể hiểu lầm là cái “cửa quyền” vẫn còn tồn tại trong giới âm nhạc Việt Nam thời hội nhập quốc tế nầy;

          3.2. Không rõ anh Trọng Bằng đã đọc được bài viết nào chứng tỏ nhạc sĩ Phạm Duy đã tự so sánh mình với các nhạc sĩ đã tham gia cách mạng chưa? Trong bộ sưu tập của tôi chưa có tài liệu ấy. Nhưng nếu có ai đó viết chuyện ấy thì cũng không sao.  Dựa trên nguyên tắc nào, quyền hành gì mà anh bảo nhạc sĩ Phạm Duy “không thể so sánh ông (tức Phạm Duy) với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”?  Nếu viết lịch sử âm nhạc Việt Nam hồi đầu kháng chiến chống Pháp (1947-1950) tôi không thể không viết Nguyễn Xuân Khoát với Tiếng chuông nhà thờ, Đỗ Nhuận với Du kích sông Thao, Văn Cao với Trường ca Sông Lô và chắc chắn tôi không thể không viết về Phạm Duy với những Xuất Quân, Chiến Sĩ Vô Danh,  Khởi Hành,  Việt Bắc, Rừng Lạng Sơn, Nhớ Người Thương Binh (1947), Mùa Đông Chiến Sĩ (1947), Dặn Dò (1947), Ru Con (1947), Nhớ Người Ra Đi (1947), Tiếng Hát Trên Sông Lô (1947), Nương Chiều (1947), Về Miền Trung (Ðại Lược-Huế, 1948), Bao giờ anh lấy được đồn Tây (Quảng Bình, 1948), Bà Mẹ Gio Linh (Quảng Trị, 1948), Gánh Lúa (1949)...v.v. Tôi cũng có thể so sánh sự xông xáo của các tác giả, so sánh ảnh hưởng của các nhạc phẩm ấy trong vùng kháng chiến và cả trong vùng tạm chiếm, so sánh giá trị nghệ thuật của các tác phẩm ấy. Năm 1996, ngồi ở Quận 18 Paris, đọc tập hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, tôi chộp được lời nhận định nầy của Phạm Duy:

          Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121). Không rõ cho đến năm 1989, trong Hội nhạc sĩ Việt Nam đã có ai so sánh các nhạc sĩ những năm đầu kháng chiến chống Pháp rồi có một nhận định về một tác phẩm của Văn Cao như thế chưa ?

          Viết lịch sử âm nhạc Việt Nam những năm kháng chiến từ 1950 đến 1954, tôi cũng có thể so sánh để thấy sự nghiệp của tác giả Phạm Duy là một con số không. Nhưng khi viết về tình ca Việt Nam, trường ca Việt Nam, về nhạc tâm linh, Đạo Ca Việt Nam, Thiền Ca Việt Nam chưa chắc nhiều ngưòi từng tham gia kháng chiến có thể so sánh với Phạm Duy. Lịch sử diễn ra như thế thì viết như thế chứ làm sao lại bỏ qua? Bỏ qua thì còn gì là lịch sử nữa? Có phải vì không viết về Phạm Duy thì thiếu, không được, mà viết thì miễn cưỡng nên cho đến nay chưa có bộ sử tân nhạc Việt Nam nào ra hồn cả. Hay đã có mà tôi ở xứ Huế xa xôi chưa biết chăng?  Nếu đã có mà tôi chưa biết thì tôi xin lỗi vậy. Nhưng nếu đã có thì vì sao các anh không báo cho giới làm báo biết để họ tham khảo, để khi viết về Phạm Duy họ viết đúng theo lịch sử của các anh. Và, nếu đã... thì làm gì có chuyện báo chí “tâng bốc, đề cao Phạm Duy quá mức” để ba anh phải buộc lòng cùng cất lời cảnh báo Phạm Duy một cách nặng nề đến vậy! Trách nhiệm của các anh ở đâu? Cơ quan nào của Đảng có thể làm thay các anh?

          3.3. Anh căn cứ vào luật lệ nào mà cấm Phạm Duy không được so sánh với Văn Cao? Luật vườn hay luật ruộng? Phạm Duy so sánh với Văn Cao để thấy Văn Cao lớn hơn Phạm Duy như thế nào chứ? Cứ đọc mục từ “nhạc sĩ Văn Cao” trong google trên internet cũng có thể thấy nhiều cụm từ Phạm Duy nói về sư lớn lao của Văn Cao như thế nào. Ví dụ Phạm Duy viết: Văn Cao “Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều.” Không so sánh làm sao Phạm Duy viết được câu đó?

          3.4. Anh Trọng Bằng đánh giá: “Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện.  Anh Phạm Tuyên ơi,  anh Trọng Bằng là một nhà soạn nhạc, nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam mà đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao chi lạ rứa?

3.4.1.“Văn Cao là một con người có trình độ”, xin hỏi trình độ gì?  Ở cấp bậc nào? Trình độ chính trị ? trình độ ngoại ngữ? trình độ toán học? trình độ âm nhạc?  Sao lại viết quá chung chung đến như thế?

3.4.2.“là một nhà nghiên cứu dân tộc” Dân tộc nào?  Với công trình gì? Có bằng Tô Ngọc Thanh, Trần Văn Khê không?

3.4.3. “ông Văn Cao là một người toàn diện” Toàn diện gì? Văn, võ, chính trị, ngoại giao, kinh tế? Diện gì anh phải nói cho rõ chứ?

Còn câu nào, cụm từ nào anh Trọng Bằng nói về giá trị âm nhạc của nhạc sĩ Văn Cao đâu? Sao ông nguyên Tổng thư ký Hội nhạc sĩ Việt Nam lại đi đánh giá nhạc sĩ Văn Cao tùy tiện, dễ dãi, tầm thường đến vậy?  Anh Trọng Bằng đánh giá Văn Cao như thế thì trên nước Việt Nam bây giờ có đến hằng ngàn “Văn Cao” theo kiểu Trọng Bằng chứ không như trong thực tế Việt Nam mới chỉ có một nhạc sĩ Văn Cao mà thôi. Đánh giá Văn Cao như thế là anh Trọng Bằng đã hạ Văn Cao thấp xuống đến một ngàn lần. 

Phải chăng vì đánh giá Văn Cao tầm thường dễ dãi đến như thế nên bao nhiêu năm các anh đã mặc cho Văn Cao ngồi in hình mình trên vách như thực tế đã diễn ra? nên sau năm 1975, Văn Cao sáng tác ca khúc Mùa xuân đầu tiên vào dịp Tết Bính thìn (1976), êm đềm, đậm đà tình người, nhưng mới phát hành đã bị tịch thu, các anh không có một lời bảo vệ? nên 1986 các anh tổ chức sáng tác quốc ca mới để thay thế Tiến quân ca của Văn Cao? May sao Mùa xuân đầu tiên vẫn được ra đời bắt đầu từ Liên xô, cuộc thi sáng tác quốc ca tiêu hao nhiều sức người. sức của nhưng rồi cũng chỉ được một bài học thất bại vì duy ý chí ngược với qui luật phát triển của nghệ thuật mà thôi. Những giá trị của âm nhạc Văn Cao không có gì có thể phủ nhận được. Các anh phê Phạm Duy kiêu, nhưng chính Phạm Duy đã đánh giá đúng Văn Cao. Theo Phạm Duy, Văn Cao là "người viết tình ca số một", "người đẻ ra thể loại hùng ca và trường ca Việt Nam"...

*

*     *

            4. Anh Hồng Đăng viết: “So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.(nđx nhấn mạnh). Nếu anh viết “Nhạc của Phạm Duy tôi chỉ thích được vài bài” thì tôi tôn trọng sở thích của anh và không dám có ý kiến gì. Nhưng anh viết chỉ “có một vài bài công chúng thích” (trong công chúng mà anh đề cập ở đây có tôi) thì không đúng. Anh Hồng Đăng là một nhạc sĩ, tác giả của sáu bảy trăm nhạc phẩm, lại nguyên là Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá IV và V, Tổng biên tập tạp chí Âm nhạc (từ 1989), và tờ Thế giới Âm nhạc (từ 1996) nên tôi không dám nêu ra đây tài liệu vị trí của nhạc sĩ Phạm Duy trong lịch sử tân nhạc Việt Nam sợ múa rìu qua mắt thợ, vốn là một nhà báo, để chứng minh điều anh viết thiếu chính xác tôi chỉ dám trưng dẫn những gì tôi đang có trong tay và những hoạt động âm nhạc vừa diễn ra mấy năm gần đây.      

          4.1. Theo Công-ty Phương Nam cho biết, Bộ Văn hoá-Du lịch &Thể thao VN đã cho phép Công-ty Phương Nam lưu hành, in ấn 6 danh sách nhạc Phạm Duy gồm 66 bài sau đây:

1 Ngậm Ngùi, 2 Mộ Khúc,3 Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, 4. Ngày Trở Về,5. Thuyền Viễn Xứ, 6. Quê Nghèo; 7. Tình Ca; 8. Bà Mẹ Gio Linh; 9. Nương Chiều 10 Bà Mẹ Quê; 11. Cây Đàn Bỏ Quên; 12 Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng; 13.Em Bé Quê; 14.Hoa Xuân; 15.Kỷ Niệm; 16.Ngày Xưa Hoàng Thị; 17.  Nghìn Trùng Xa Cách; 18.Xuân Ca;19 Tình Hoài Hương; 20. Tình Cầm; 21. Chỉ Chừng Đó Thôi; 22.  Trăm Năm Bến Cũ; 23.Vô Thường; 24. Hương Rừng; 25.Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho 26. Vợ Chồng Quê; 27.Tiếng Đàn Tôi; 29. Đố Ai; 30.Tiếng Sáo Thiên Thai; 31.Nụ Tầm Xuân; 32 Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà; 33.Cành hoa trắng; 34.Thương tình ca; 35.Cỏ hồng; 36.Đường em đi; 37.Chuyện tình buồn (phổ thơ Phạm Văn Bình) , 38.Tây tiến; 39.Gánh lúa; 40.Tuổi ngọc; 40.Ông trăng xuống chơi;41.Con Đường Tình Ta Đi, 42.Phượng Yêu, 43.Còn Gì Nữa Đâu 44 Thương Ai Nhớ Ai. 45.Bài Ca Sao; 46.Bài Ca Trăng; 47.Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu 48 Em Lễ Chùa Này, 49. Ngày Đó Chúng Mình; 50.Tìm Nhau, 51. Kiếp Nào Có Yêu Nhau, 52.Nha Trang Ngày Về; 53.Con Đưởng Cái Quan – Phần Miền Trung (cho phép hát trong Festival Huế);54. Yêu là chết ở trong lòng; 55.Khối tình Trương Chi; 56.Tình hờ; 57.Ngày em 20 tuổi, 58.Tóc mai sợi văn sợi dài; 59.Tuổi mộng mơ; 60.Tuổi hồng 61.Tuồi thần tiên, 62.Vết sâu; 63.Hoa rụng ven sông, 64.Tôi đang mơ giấc mộng dài; 65 Nghìn năm vẫn chưa quên; 66.Chiều Về Trên Sông.

          Phần lớn những nhạc phẩm được phép lưu hành của Phạm Duy đã được Phương Nam Phim dàn dựng đưa vào 5 CD: 1 - Ngày trở về, 2 - Đưa em tìm động hoa vàng; 3 - Tình hòai hương;4 - Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà;5 - Phượng Yêu. Và đã sản xuất 50.000 CD. Ngoài ra, các CD album của các ca sĩ cũng tranh thủ hát nhạc Phạm Duy như: Đức Tuấn - Hát tình ca Phạm Duy, Kiếp nào có yêu nhau, Thanh Thúy - Cỏ hồng, Tấn Sơn - Phạm Duy, người Từ Trăm Năm...

         Song song với 50.000 CD nhạc Phạm Duy tung ra thị trường, các đêm nhạc Phạm Duy cũng đã tổ chức và bán vé chính thức: Ngày trở về (2006), Con đường tình ta đi (2008);- Ngày trở về (Hà Nội) (2009). Được biết giá vé đêm nhạc ở Nhà hát lớn Hà Nội  có đến 3 loại : 800.000Đ; 600.000Đ và thấp nhất là 400.000Đ.

         “Chỉ có một vài bài (nhạc Pham Duy) công chúng thích” như anh viết thì Công-ty Phương Nam không dám phiêu lưu dàn dựng 5 CD với 50.000 bản, không dám tổ chức những đêm diễn hết sức tốn kém ở cả ba miền đất nước và chắc chắn người Hà Nội sành điệu cũng không “nóng đầu” bỏ ra từ bốn trăm đến tám trăm ngàn đồng để đi nghe “một vài bài” nhạc Phạm Duy. Qua những con số thống kê trên chứng tỏ đã có một “hiện tượng” Phạm Duy. Đối với ông “anh Cả” Văn Cao cũng chưa từng tạo nên một hiện tượng như thế. Đáng lẽ chúng ta phải nhìn thẳng vào hiện tượng đó, tìm hiểu vì sao người ta lại thích nhạc Phạm Duy đến thế, các ca sĩ hát nhạc Phạm Duy, các cách dàn dựng, các cách tiếp thị làm sao mà thành công đến thế để rút kinh nghiệm. Các anh không làm việc đó mà lại dùng cái biện pháp quá cũ là “đe, nẹt” và làm ngơ trước sự thật đó.

          Thưa các anh, tôi không có nhiều thì giờ và cũng không dám trích 1/5 đến 1/3 lương hưu để mua vé đi nghe  nhạc Phạm Duy (trừ những lần được các bạn làm việc cho Phương Nam mời), nhưng mỗi lần đọc báo và internet biết sự thành công của những đêm nhạc Phạm Duy (đặc biệt là xuất diễn Ngày trở về ở Hà Nội 2009) tôi hết sức mừng, nói đúng hơn là sướng, “đả đời” lắm. Một là, để cho những người chống VN ở nước ngoài, những người đã dội “gió tanh, mưa máu” lên Phạm Duy khi anh hưởng ứng Nghị  quyết 36 về với cội nguồn, thấy rằng người nghệ sĩ chân chính chỉ đứng trên quê hương mình, phục vụ dân chúng của mình mới được vinh dự, mới được thành công đến như thế; chứng tỏ Phạm Duy đã đi đúng đường; Hai là, qua những đêm nhạc Phạm Duy, người Việt Nam (đặc biệt là dân Thủ đô Hà Nội ) chứng tỏ cho người ngoài thấy sự sang trọng, trình độ thẫm nhạc rất cao của mình; Ba là, với sự có mặt của nhạc sĩ Phạm Duy, đêm diễn nhạc Phạm Duy ở các nhà hát lớn của Việt Nam, với những thành công của các giọng ca trẻ thuộc thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, với sự hưởng ứng của dân chúng Việt Nam, chứng tỏ Việt Nam đã khác xưa, đã đổi mới thật sự.

          Nhân đây tôi xin kể với các anh câu chuyện nầy: Tết năm 2005 ông Nguyễn Cao Kỳ - làm thủ tương rồi làm Phó Tổng thống chế độ cũ được Chính phủ ta cấp phép về nước. Ông vô Nam, ra Bắc tiếp báo chí, truyền hình, nói năng thoải mái. Gặp anh NP - một sinh viên tranh đấu từng bị ông Kỳ phái Tổng giám đốc công an VNCH Nguyễn Ngọc Loan truy bắt để giết, anh NP phải thoát ly theo kháng chiến, tôi hỏi:

- Anh có đồng ý việc chính phủ mình cấp phép cho ông Nguyễn Cao Kỳ về nước và tự do thoải mái như thế không?  Anh có còn thù hận chuyện ông Kỳ truy bắt anh trước đây không?     

Anh NP với nét mặt nghiêm nghị đáp:

- Trước nhất, nếu gặp ông Kỳ thì tôi có lời cám ơn ông ấy. Nhờ ông cho người truy bắt để giết tôi, tôi mới thoát ly theo kháng chiến và tôi vinh dự được góp phần giải phóng và thống nhất đất nước. Từ ngày Thất thủ Kinh đô 1885 cho đến ngày độc lập thống nhất đất nước ngót 90 năm. 90 năm chiến đấu ấy có biết bao lớp người đã hy sinh. Vinh quang của sự hy sinh to lớn đó dành cho dân tộc Việt Nam. Ông Nguyễn Cao Kỳ tự hào ông là người Việt Nam, ông được hưởng cái hạnh phúc đó của dân tộc. Còn chuyện trong quá khứ, ông làm gì trong bộ máy do Mỹ dựng lên để chống kháng chiến, chống phong trào tranh đấu mà tôi đã tham gia ở các đô thị miền Nam thì là chuyện của các sử gia. Không ai có ý kiến khác được. Nếu còn một người Việt Nam nào đó chưa biết quý, chưa được hưởng cái hạnh phúc dộc lập tự do mà cuộc kháng chiến mang lại thì sự hy sinh của những người làm nên chiến thắng Mùa Xuân 1975 chưa được đền đáp trọn vẹn. Tôi hoan nghinh việc ông Kỳ có mặt ở Việt Nam hôm nay.

Tôi cũng cùng có ý nghĩ như anh bạn NP. Nhạc sĩ Phạm Duy có lỗi với kháng chiến nhưng trong lịch sử âm nhạc Việt Nam buổi đầu kháng chiến Phạm Duy cũng có công hơn hẵn ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông Kỳ được hưởng như thế thì Phạm Duy phải hơn thế chứ? Mỗi lần thấy có thêm một biểu hiện thành công của Nghị quyết 36 tôi sướng. Tôi có cảm tưởng sự thành công của nhạc sĩ Phạm Duy trên đất nước mình cũng chính là sự thành công của tôi, của chúng ta, của Đảng ta.     

*

*     *

          5. Ở đầu bài báo, anh Trọng Bằng cảnh báo nhạc sĩ Phạm Duy: Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng”. Ở gần cuối anh Hồng Đăng lại đem Phạm Duy so sánh với một số nhạc sĩ cách mạng và gởi đến Phạm Duy một câu kết rằng: “Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm,(NĐX nhấn mạnh). Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…” Ý kiến nầy của anh quá chủ quan. Muốn đi đến kết luận hơn thua đó ít nhất anh phải thực hiện các việc sau:

          -Xét tuổi tác

          - Xét về hoàn cảnh

          - Xét về điều kiện làm viêc;

- Xét về thành tựu (về số lượng) nghiên cứu, vận dụng, “khai thác dân ca vào sáng tác mới”

-  Xét về kết quả (về chất lượng).

Về tuổi tác Phạm Duy thuộc lớp đàn anh cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý.v.v. thê hệ thứ nhất của tân nhạc Việt Nam, các nhạc sĩ anh nêu tên so sánh với Phạm Duy thuộc thế hệ thứ hai. Không thể đem công việc làm của thế hệ thứ nhất so sánh với công việc của thế hệ thứ hai. So sánh như thế là khập khiễng, sai;

Về hoàn cảnh: Phạm Duy sống với kháng chiến chỉ có ba bốn năm rồi “vào thành”, 25 năm (1950-1975) sống trong vùng tạm chiếm ở miền Nam với các vùng nông thôn, cao nguyên có truyền thống dân ca chìm ngập trong chiến tranh. Khi chiến tranh chấm dứt thì chạy qua Hoa Kỳ không có không khí Việt Nam để thở nữa chứ lấy đâu dân ca mà nghiên cứu vận dụng. Hoàn cảnh tiếp xúc với dân ca của Phạm Duy quá khác với hoàn cảnh của các anh  Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây. Các anh được sống nhiều năm hòa bình ở miền  Bắc và gần 35 năm độc lập, hòa bình, thống nhất toàn cõi Việt Nam. Các anh có thể đi Đông Tây Bắc, đi khắp vùng châu thổ sông Hồng, đi sâu vào các vùng dân ca phong phú Thanh, Nghệ, Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Tây Nam bộ. Phạm Duy với các anh không cùng một hoàn cảnh nên không thể so sánh để đưa đến kết luận hơn thua được; so sánh như vậy là gò ép, khiên cưỡng,

- Về điều kiện làm việc: Anh Phạm Duy là một nhạc sĩ tự do, sống bằng tác phẩm của mình trơ trụi giữa bộ máy chiến tranh chống kháng chiến Việt Nam của Mỹ và chính quyền tay sai ở Sài Gòn, sau 30-4-1975 lại chạy qua Mỹ bươn chãi kiếm sống nuôi bầy con dại với chính tác phẩm tân nhạc của mình, mãi gần 10 năm mới nghĩ mình có thể tiếp tục nghiên cứu, sáng tác. Trong lúc đó, nhiều trong số các anh được Hồng Đăng nêu tên sống tại Việt Nam, ăn lương nhà nước, có nhiều cơ hội đi nghiên cứu thực tế ở các vùng dân ca, được học hành, được tham khảo với các bậc thầy Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, được đến nghiên cứư tại các vụ, viện dân tộc nhạc học tại Hà Nội và TP HCM, và cả Huế nữa. Điều kiện môi trường đầu vào khác nhau thì làm sao có thể lấy sản phẩm của đầu ra đặt cạnh bên nhau để nói chuyện hơn thua được? So sánh như vậy là tùy tiện, dễ dãi, thiếu sức thuyết phục;

- Về thành tựu (số lượng). Thật tình tôi rất “viễn chi” con người thường trong cuộc sống thực của nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng tôi cũng như đa số bạn bè lứa tuổi tôi bị nhạc của Phạm Duy chinh phục bởi cái chất dân ca, cái “chất Việt”, cái chất dân tộc rất gần gũi trong nhạc của Phạm Duy. Viết lá thư nầy tôi không tiện dẫn chứng cái chất dân ca trong hàng trăm bài nhạc của Phạm Duy mà tôi đã nghe. Chỉ trong vòng 66 bài đã được phép lưu hành tôi cũng đã thấy các bài Quê Nghèo; Tình Ca; Bà Mẹ Gio Linh; Nương Chiều, Bà Mẹ Quê; Em Bé Quê; Hoa Xuân; Xuân Ca; Tình Hoài Hương; Gánh lúa; Bài Ca Sao...được sáng tạo từ các nguồn dân ca. Đặc biệt trong hai Trường ca Con Đường Cái Quan  Mẹ Việt Nam phổ biến rộng rãi ở miền Nam trước 1975 là hai tổ khúc dân ca phát triển được kết nối một cách nhuần nhuyễn tài tình. Trường ca Con Đường Cái Quan, 19 đoản khúc, Mẹ Việt Nam, 22 đoản khúc. Có thể xem 41 (19+22) đoản khúc nầy là 41 bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới”. Những gì tôi biết về Phạm Duy quá ít ỏi so với những gì Phạm Duy đang chuẩn bị để lại cho dân tộc để đi họp mặt với Nguyên Xuân Khoát, Văn Cao, Đỗ Nhuận .v.v. ở chốn vĩnh hằng. Bao giờ anh Hồng Đăng chưa cho tôi một danh sách về số lượng các bài “khai thác dân ca vào sáng tác mới” của từng anh em mình đã có để tôi so sánh với số lượng bài mà tôi biết của Phạm Duy thì tôi vẫn chưa tin lời anh nói về Phạm Duy là đúng được.

- Về chất lượng. Trong văn học nghệ thuật, quý hồ tinh chứ không phải quý hồ đa”. Dõi theo hai cuộc kháng chiến ta thấy có biết bao thơ hay ra đời, nhưng rồi người ta cũng chỉ thuộc và chép cho nhau ngâm nga Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Quê hương (Giang Nam), Núi Đôi (Vũ Cao).v.v. Văn Cao chỉ sáng tác trên 10 tác phẩm[1] mà được xem như “ngưòi anh cả” về nhiều mặt trong tân nhạc Việt Nam. Trong lúc đó có nhiều người soạn đến sáu bảy trăm bài hát mà may lắm dân chúng mới nhớ được tên một vài bài. Được thế cũng đã quý lắm rồi. Do đó rất khó so sánh hơn thua về chất lượng nghệ thuật của “các sáng tác mới”  “khai thác từ dân ca” của Phạm Duy và của các anh được Hồng Đăng biểu dưong. Một người ngoại đạo âm nhạc như tôi không dám bàn đến chất lượng âm nhạc (dù lớn dù nhỏ) của giới nhạc sĩ Việt Nam. Nhưng với nghiệp vụ báo chí, tôi có thể lấy sự tiếp nhận của dân chúng và của chính tôi làm thang điểm đánh giá chất lượng các ca khúc Việt Nam.

- Về sự tiếp nhận của dân chúng, các anh chưa tạo được hiện tượng nhạc Pham Duy như đoạn 4.1 nêu trên.

- Về kinh nghiệm bản thân: Trước tuổi 15 (1952), tôi ở trong rừng Đà Lạt, sau đó tôi ra khỏi rừng đi học ở Đà Lạt, Đà Nẵng, Huế, vỏn vẹn có 14 năm (1952-1966), sau đó (tháng 7-1966) đi kháng chiến chống Mỹ ở chiến khu Trị Thiên. Trong 14 năm đi học, tôi có dịp được tiếp xúc với tân nhạc, với nhạc Phạm Duy. Đi kháng chiến tôi mang theo trong lòng những lời ca mang âm hưởng dân ca, âm hưởng các điệu hò, điệu lý quê tôi của Phạm Duy:

      Hò hố!... Hò hô!...

      Hò hớ hơ!... Nhớ thương về chiến khu mờ....

      Biết bao người sống mong chờ... (Về Miền Trung)

      Xa xa tiếng chuông chùa gieo

      Hò ơi... ơi ới hò! Hò ơi... ơi ới hò!... (Bà Mẹ Gio Linh)

       Em ở lại nhà, em ơi, em ở lại nhà

      Vườn dâu em đốn mẹ già em thương,... tình tang... (Dặn Dò)

      Ðây chốn biên khu, lòng ta như nước sông Lô

      Khoan hỡi khoan hò,  hò... hò... khoan!... (Tiếng Hát Trên Sông Lô)

      Từ ngày, từ ngày chinh chiến mùa thu

      Có chàng ra lính biên khu... ai ơi tung hoành... u u ù...(Nhớ Người Thương Binh)

          Các con tôi ngày nay (trên dưới 30 tuổi) đều có ăn học, có bằng cấp hơn tôi, ưa thích âm nhạc, rất thích những bài hát “khai thác từ dân ca”, đặc biệt là nhạc phát triển từ dân ca Tây nguyên của Nguyễn Cường, nhưng tôi bảo chúng hát cho tôi nghe một bài của các anh thì đứa nào cũng cười trừ. Thực tế nó như thế đó, anh Hồng Đăng ạ, anh nghĩ lại xem thử câu nhắn gởi đến nhạc sĩ Phạm Duy “khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm” của anh có còn đúng không?

          Mà anh Hồng Đăng nầy, nền tân nhạc/nhạc mới Việt Nam trong văn hóa VN đâu chỉ có nhạc mới, đâu chỉ có kháng chiến ca, tình ca?  Tôi xin lặp lại là tôi ngoại đạo âm nhạc, chỉ với vị thế của một người cầm bút xứ Huế thôi tôi cũng đã thấy trong lịch sử âm nhạc VN còn nhiều thứ nữa: Nền âm nhạc VN có Nhạc đồng quê, nhạc tuổi thơ, nhạc tuổi xanh/nhạc trẻ, nhạc tuổi hồng, nhạc phổ thơ, tâm ca, bình ca, trường ca, nhạc tâm linh (Thiền ca, Đạo ca), nhạc múa, nhạc kịch, nhạc phim.v.v. và cao nhất là nhạc bác học nhạc thính phòng, giao hưởng. Loại nhạc nào VN cũng có đỉnh cao cả. Phạm Duy chỉ làm ca khúc và dài nhất là trường ca chứ chưa hề soạn một giao hưởng nào. Trong lúc đó nhiều nhạc sĩ VN như Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo, Hoàng Việt, Nguyễn Văn Thương, Ca Lê Thuần, Trọng Bằng, Đõ Hồng Quân v.v. đã có rất nhiều giao hưởng nổi tiếng trong và ngoài nước. Tuy nhiên, con trai của Phạm Duy là nhạc sĩ Duy Cường mấy chục năm qua đã không ngừng nghiên cứu âm nhạc Việt Nam và âm nhạc cổ điển Tây phưong không ngừng phấn đấu phối âm, phối khí nâng những ca khúc, những trường ca của thân sinh mình lên thành những bản hòa tấu / những tác phẩm âm nhạc thính phòng có giá trị quốc tế mà lại rất gần gũi với hơi thở và tiếng nói Việt Nam. Với tài năng của bản thân và sự tiếp tay của con cái, nhạc sĩ Phạm Duy đã chiếm được nhiều đỉnh cao trong lịch sử âm nhạc VN. Lấy cái tội Phạm Duy bỏ kháng chiến “về thành” đặt lên cân với các đỉnh cao của Phạm Duy trong lịch sử âm nhạc Việt Nam thì một cậu sinh viên mới vào trường âm nhạc cũng có thể thấy bên nào trọng bên nào khinh. Anh Phạm Tuyên, anh Hồng Đăng có “OK” với tôi như thế không? 

*

*     *

             Anh Phạm Tuyên kính mến,

               6.  Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao”.

Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý nội dung ý kiến nầy. Nhưng nó chỉ đúng khi tác giả ý kiến đó là một vị lãnh đạo Đảng, một quan chức lãnh đạo ngành văn hoá chứ không phải một quan chức ngành âm nhạc là Phạm Tuyên. Bởi vì việc “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy” là việc của Hội nhạc sĩ VN, của Viện nghiên cứu Âm nhạc VN, của các quan chức trong Hội Nhạc sĩ VN, trong đó có nhạc sĩ Phạm Tuyên. Không ai có thể thay thế các anh để làm việc đó cả. Việc của các anh các anh không làm lại đi chê trách báo chí trong cơ chế thị trường? Đáng lẽ báo chí phê phán các anh không làm nhiệm vụ của mình mới đúng chứ? Hay các anh sẽ bảo “Vì Phạm Duy mới về nên chưa làm kịp?” Vâng, mới gần 5 năm nên chưa kịp. Thế đối với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dã gần 35 năm rồi các anh đã “thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn chưa? Cũng chưa? Có lẽ vì thế mà cả một cái sự nghiệp âm nhạc Trịnh Công Sơn được dân chúng trong và ngoài nước xem là đỉnh cao ấy chưa hề được ghi tên vào danh sách xét trao các giải thưởng cấp tỉnh, cấp nhà nước nào của các anh cả. Sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn đã vượt qua mọi giải thưởng. Thế các anh có biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ở Quận 4 TP HCM không?  Thưa thật với anh, tôi là người ngoại đạo, nếu có nói sai mong anh và các bạn của anh đại xá: Ở các đô thị miền Nam trước năm 1975, khó tìm được một nhạc sĩ tài năng, yêu nước, can đảm, cách mạng như Phạm Thế Mỹ. Theo những thông tin của những người gần gũi với Phạm Thế Mỹ thì hình như Hội nhạc sĩ VN chưa quan tâm đến Phạm Thé Mỹ. Để các anh có dịp trao đổi với Hội Nhạc sĩ VN, tôi gởi kèm theo dưới đây bản liệt kê những gì tôi biết về người nhạc sĩ sống rất vinh quang và chết trong trong âm thầm ấy.

*

*     *

          7. Tôi cũng xin tâm sự với anh Phạm Tuyên về những thông tin có liên quan đến ông bạn Trọng Bằng của anh trong tâm trí của tôi sau đây:

          Như anh biết, tôi vốn xuất thân trong Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây và công tác ở chiến trường đồng bằng Trị Thiên Huế những năm đánh Mỹ ác liệt nhất (1966-1974). Tôi không được học hành nhiều, không có bằng cấp gì. Thật khác với đại đa số bạn bè tôi không tham gia tranh đấu, không hề biết kháng chiến, chỉ tập trung học hành nên đỗ đạt cao. Đối với bạn bè cùng thế hệ, tôi luôn có mặc cảm là mình dốt. Do đó từ sau ngày đi kháng chiến, tôi biết được trong hàng ngũ đồng chí, đồng đội của tôi có người được Đảng đào tạo, cho ăn học đến nơi đến chốn tôi rất tự hào. Đó là những lực lượng trí thức của tôi đối trọng với những người ở phía bên kia. Trước đây mỗi lần được xem (hoặc qua Tivi) GS NSND Trọng Bằng - tốt nghiệp trường nhạc của Liên-xô điều khiển Ban nhạc giao hưởng rất bề thế của VN tôi rất tin tưởng. Tin tưởng, tự hào về những hoạt động văn hóa chất lượng cao của VN. Nhưng rồi không ngờ năm 2006 ra Hà Nội ghé thăm các bạn cũ đồng nghiệp của tôi ở báo Lao Động, vô tình tôi nghe kể chuyện xì-căng-đan: “nhạc sĩ Trọng Bằng đạo nhạc”, tôi tá hỏa. Các bạn kể rằng: GS NSND Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN tự đưa tác phẩm Ouverture Chào mừng của ông ra đề nghị xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh thì bị nhạc sĩ Vĩnh Cát tố cáo là tác phẩm Ouverture Chào mừng của nhạc sĩ Trọng Bằng không chỉ copy ý tưởng mà chép nguyên văn các chủ đề (thème) và cách phối âm phối khí trong bản giao hưởng số 5 của Shostakhovich và tác phẩm giao hưởng số 7 của Prokofiev. Bốn đại tá nhạc sĩ quân đội nổi tiếng là Huy Thục, Nguyên Nhung, Doãn Nho và Nguyễn Đức Toàn cũng tố cáo nhạc sĩ Trọng Bằng với nội dung tương tự. Nhạc sĩ Trọng Bằng không bảo vệ được tác phẩm của mình nên cuối cùng phải xin “rút khỏi danh sách đề cử giải thưởng Hồ Chí Minh”. Thật hú hồn. Ông Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ VN mà đi đạo nhạc, đi tranh giải văn học nghệ thuật cao nhất nước, bị tố cáo phải rút lui thì hết chỗ nói chuyện đạo đức với bất cứ người làm nghệ thuật già trẻ, cũ mới nào rồi. Nếu không có trí thức và sự thẳng thắn của ông Vĩnh Cát và các vị Đại tá nhạc sĩ quân đội ấy thì hậu quả sẽ ra sao? Các nhạc sĩ Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo ở Pháp, các nhạc sĩ Nga học cùng thế hệ với Trong Bằng ở Liên-xô cũ nghĩ gì về các nhạc sĩ, trí thức hàng đầu ở VN? Các tác giả  nhạc giao hưởng đồng nghiệp của Trọng Bằng sẽ nghĩ gĩ về cái Giải thưởng Hồ Chí Minh treo trong nhà nhạc sĩ Trọng Bằng? Hơn thế nữa người trong và ngoài nước sẽ xem cái Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý nhất nước như thế nào? Và, riêng những người với tài năng thực sự họ đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh sẽ  phẫn nộ về sự không lương thiện của Trọng Bằng làm ảnh hưởng đến giá trị cái giải thưởng cao quý mà họ đã nhận như thế nào? Với một cú bị knock out như vậy đáng lẽ anh Trọng Bằng phải tu tỉnh, nhìn lại mình, kiểm điểm những ấu trỉ, những thiếu sót của mình đối với anh em đồng nghiệp, bao dung, thông cảm với những người không được may mắn như mình, vỗ về, xoa dịu những nỗi đau của đồng nghiêp.v.v. Nhưng ...than ôi!

*

*     *

            Kính anh Phạm Tuyên,

          Tôi tuy nhỏ tuổi hơn các anh nhiều, nhưng cũng đã 73 tuổi, “cái tuổi xưa nay hiếm”. Nhiều đêm không ngủ được, không dám tính thêm chuyện gì nữa trong tương lai mà cứ nhớ và ngẫm lại chuyện cũ. Tôi mừng mình được may mắn có mặt trong cuộc kháng chiến trường kỳ góp phần giải phóng đất nước, nhiều bạn bè tôi ở miền Nam không được cái hạnh phúc ấy; Đến cuối đời thấm nhuần được một chút Đạo Phật, thấm thía với hai chữ nhân quả - vô thường, nên tuổi già được thanh thản. Ngẫm lại sự đời mình đã trải qua thật thấm thía. Không đâu xa, thực tế nhãn tiền cho thấy trước là tội nay là công, trước là bạn, sau là thù, xưa là thù nay là bạn, nay là công biết đâu do nhân quả mai là tội cũng nên. Nhiều vị “mắc tội nhân văn” cũ nay đã có giải thưởng quốc gia, ông Bùi Tín là một người có công trong kháng chiến, có mặt ở Dinh Đọc Lập trưa ngày 30-4-1975 nay là “nghịch thần” lưu vong ở nước ngoài. Nhạc sĩ  Phạm Duy mắc tội bỏ kháng chiến “về thành”, nhưng với sự nghiệp âm nhạc đồ sộ nhất nước VN hiện nay của ông, biết đâu một ngày đẹp trời nào đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng được vinh danh như Văn Cao đã từng được hưởng? Ai dám chắc nói không? Công với tội thật vô thường. Chỉ có một thứ như Trịnh Công Sơn viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” là không thay đổi, dù để cho gió cuốn đi vẫn không mất. Phải chăng giới văn nghệ sĩ chúng ta hôm nay vẫn còn thiếu cái ấy? 

Thư đã quá dài, tôi không dám làm phiền anh thêm nữa. Xin dừng bút. Kính chúc anh sức khỏe..

                                                                         Nguyễn Đắc Xuân


Thứ Tư, 27 tháng 5, 2009

Nhớ người xưa ...


               

             


 Mấy năm thoắt đã qua rồi ,
Sao chưa quên được bóng người thiên thu

                                                                                          


                      Đêm nay một mình xem bóng đá ,

                     Nhớ người xưa nước mắt tuông rơi .

                     Ba đi rồi bỏ lại sau tất cả ,

                     Bỏ hết ưu phiền , bỏ cả những cuộc chơi  ! (1)

  ___________________________________________
(1) Lúc sinh tiền Ba tôi rất mê bóng đá , Người không bao giờ bỏ những trận đấu hay như hôm nay .

   ( Chung kết C1 giữa MU và Barcelona 28/5)

 

ĐẮNG VÀ NGỌT


     

  

 

                 TRANG THẾ HY

     ĐẮNG VÀ NGỌT











        

                       TRANG THẾ HY





  Ngày xưa hồi còn thơ,

      Một chiều nắng nhạt khoe màu tơ,

     Tôi cùng em hai đứa

     Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửa

     Tóc em chừa bánh bèo,

      Môi chưa hồng, da mét (con nhà nghèo)

     Đầu anh còn hớt trọc,

    Khét nắng hôi trâu, thèm đi học.

    Em cầm một củ khoai,

    Gọt vỏ bằng răng rồi chia hai.

    Thứ khoai sùng lượm mót

    Mà sao nó ngọt ơi là ngọt !

    Bây giờ giữa đường đời,

    Kỷ niệm ngày xưa xa mù khơi.

    Gặp nhau chiều mưa lạnh,

    Hai đứa đều sang trong bộ cánh.

    Dung nhan em còn tươi,

    Anh mừng tưởng đâu đời em vui.

    Nào hay đây là quán,

    Em bẹo hình hài rao lên bán !

    Giữa thời đông khách mua,

    Chợ thịt còn sung được nhiều mùa.

    Nghe nói anh cầm viết,

    Nghệ thuật là gì em muốn biết.

    -Mùi tanh nói mùi thơm,

    Cây bút trong tay: cần câu cơm,

    Đó, em ơi !Nghệ thuật,

    Nhắm mắt, quay lưng chào sự thật.

    Rồi đôi ta nhìn nhau,

    Không ai đánh mà lòng nghe đau.

    Em mời anh bánh ngọt

    Nhớ cũ khoai sùng ngày xưa lượm mót.

    Đường bánh tươm vàng mơ

    Như nắng chiều xưa khoe màu tơ.

    Mới cầm lên chưa cắn

    Mà sao nó đắng ơi là đắng !

    Xin anh một nụ cười.

    -Cười là sao nhỉ ?Anh quên rồi.

    Xin em chút nước mắt.

    -Mạch lệ em từ lâu đã tắt.

     Hỏi nhau: buồn hay vui ?

    -Biết đâu ! Ta cùng hỏi cuộc đời.


    PC: Ông Thiện Mộc Lan, cựu ký giả ở Sài Gòn, hiện đang sống ở Sa Đéc, tình cờ gởi cho tôi bản photo bài thơ nầy với dòng chú thích:Bài thơ nầy đăng trên tuần báo VUI SỐNG ở Sài Gòn năm 1959, bút hiệu Minh Phẩm, nhan đề CUỘC ĐỜI do tòa soạn đặt. Theo nhà thơ Trần Hữu Dũng thì bản gốc của tác giả có tựa là ĐẮNG VÀ NGỌT, sau đó nhà văn Bình Nguyên Lộc sửa lại là CUỘC ĐỜI. Nhạc sĩ Phạm Duy khi phổ nhạc lại đổi tên là QUÁN BÊN ĐƯỜNG. (Võ Đắc Danh)

  Mời các bạn nghe Thái thanh hát bài "Quán bên đường" ở bên Music .

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2009

ĐÀN BÀ LÀ GÌ ?



Trong văn học dân gian An Độ, có pho truyện Prem Xagar (Biển Yêu Đương) được  lưu truyền từ hơn ba ngàn năm nay, là một trong những tác phẩm tuyệt vời của nhân loại mang tính triết học và mỹ học rất cao. Chuyện kể về một cuộc tình của vua Xuryakant và nàng công chúa Amangaraga. Truyện có đoạn như sau:

“Một hôm nhà vua nói với người cận thần Rơxkơsơ:

-Bạn ơi! Ta có một điều tệ nhất là không hiểu biết gì về người đàn bà cả. Hãy nói cho ta biết ĐÀN BÀ LÀ GÌ ?

Rơxkơsơ mỉm cười kể:

“ Thuở mới sinh ra trời đất, ông thợ Tạo hóa thấy đã đến lúc cần phải có người đàn bà, mới nhớ ra là bao nhiêu nguyên liệu đều đã dốc cả vào việc chế tạo ra đàn ông. Trong khi nan giải, tạo hóa suy nghĩ một hồi rồi thu góp các vật liệu để chế tạo ra đàn bà.

Tạo hóa đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của các loài dây leo, dáng run rẩy của loài hoa cỏ, nét mảnh khảnh của lau sậy, màu rực rỡ trên cánh bướm, sự nhẹ nhàng của chiếc lá rụng, sự tinh tế ở đầu vòi voi, cái nhìn ngây thơ của hươu nai, cảnh xúm xít của đàn ong mật, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, nét xa xăm của tầng mây, sự lay động của làn gió, lộng lẫy kiêu sa của chim công, chất cứng rắn của kim cương, vị ngọt ngào của trái chín, lòng tàn nhẫn của hùm heo, sức thiêu đốt của ngọn lửa, khí lạnh lẽo của băng tuyết, tiếng kêu khắc khoải của chim quyên, đức trung trinh của chim uyên ương, tánh dối trá của cò vạc… Thượng đế đem hết mấy thứ đó nhào nặn thành người đàn bà rồi đem người đàn bà ấy tặng cho đàn ông”.

Truyền thuyết Biển Yêu Đương còn kể rằng, sau hai mươi đêm đối đáp để đấu trí với người đẹp, nhà vua thắng cuộc và được công chúa nhận lời kết hôn. Say đắm vì tình yêu và rạo rực trước sắc đẹp của nàng, nhà vua thốt lên tong đêm tân hôn:

“Người yêu của ta ơi! Nếu ta kh6ng lầm thì tên nàng là Amanagaraga, nghĩa là “trái tim đỏ thắm”. Cái tên đó cũng không thể nào tả hết vẻ đẹp của nàng. Tên nàng còn nên gọi là Thanh Liên, vì mắt nàng lóng lánh như mắt nai. Tên nàng là Hoa Chi vì thân hình nàng yểu điệu như cành hoa. Tên nàng là Dạ Quang, như viên ngọc chiếu sáng cả trong đêm tối. Tên nàng là Túy Lăng vì nàng là làn sóng của biển say. Tên nàng là Phong Ai vì con ong tưởng nàng là hoa nên sà xuống. Tên nàng là Kim Biểu vì đôi vú nàng mơn mởn như hai quả bầu non bằng vàng. Tên nàng là Sa Loan vì mông nàng hay hẩy như hai cồn cát. Tên nàng là Mỹ Nhân vì chỉ có nàng mới xứng đáng gọi là người đẹp.

Công chúa mỉm cười:

-Chàng đặt cho em không biết bao nhiêu là tên, thế mà vẫn thiếu môt cái tên chân chính của em.

-Còn tên nào nhỉ?

-Chàng là mặt trời của em và tất cả em đây là thuộc về chàng. Vì thế nên đặt tên em là Thiên Thanh để nói rõ tình yêu của em đối với chàng là vĩnh viễn không hề phai nhạt. Nếu không được như thế, thì sắc đẹp của người đàn bà chỉ là nhụy ngọt tẩm thuốc độc mà thôi” (1)

Nhụy ngọt tẩm thuốc độc . Mấy chữ đó từng là đề tài của những bộ tiểu thuyết hay nhất mà đàn bà khi nào cũng là nhân vật chính. Nếu có những quyển sách mà trong đó nhan sắc của đàn bà ít được ca tụng nhất thì đó là những quyển Kinh Phât. Trong Kinh Phât có chữ “Quán Bất Tịnh”, ý nói người đàn bà cũng như mọi chúng sinh, bất quá chỉ là mọt cái túi da chứa đựng toàn những hôi hám. Quan điểm này có thể rất gần gũi với cái nhìn máy móc của một số nhà khoa học hiện đại.

Dưới mắt các nhà khoa hõc thân thể người đàn bà là một cái túi da, bên trong chứa đến 80% là nước lõng bõng. Nghĩa là nếu một phụ nữ có thể trọng là 50 kg thì NƯỚC chiếm hết 40 kg, còn lõng bõng hơn một bát canh chua. Oxy dưới dạng hợp chất hiếm, hơn 30 kg, bằng lượng khí oxy mà những cây cối trong công viên Lục Xâm Bảo thải ra theo đường hô hấp mùa hè. Khí Hydro trong thân thể phụ nữ nếu được phóng thích tụ do, đủ bơm đầy hàng trăm ngàn bong bóng bay rợp trời. Chất CHLOR đủ dùng để pha vào nước sát trùng cỡ 5 hồ bơi công cộng. CHẤT BÉO ở một người đàn bà có 3 vòng  lý tưởng đủ để sản xuất cỡ 5 kg xà phòng giặt áo quần. CARBON chiếm khoảng 10 kg, đủ cho các bà nấu cơm gia đình cả tuần lễ. Đàn bà cũng có chứa những chất độc hại, PHỐTPHO trích ly có thể làm được 400 bao diêm, LƯU HUỲNH  có thể diệt sạch 3 thế hệ bọ chét trên kình một con chó xù. GLYCERIN có thể làm nổ tung một tòa nhà kiên cố. SẮT  nguyên chất có thể rèn được một con dao sắt thịt. MUỐI được hơn nửa lạng, ĐƯỜNG GLUCOSE được gần hai lạng. Số lượng muối và đường này, hòa tan trong 40 lít nước, không đủ làm cho người đàn bà có vị mặn hay ngọt gì cả. Đàn bà có mùi gì không? Dĩ nhiên là có, nhưng hoàn toàn không phải là mùi thơm như ta tưởng, bởi vì không có một bộ phận nào trong quí bà, quí cô có cấu tạo của vòng nhân thơm PHÊNOL. Tất cả những cái gọi là mùi hương lan, hương trầm… đều là sản phẩm nhân tạo do xà phòng, nước hoa và đủ thứ hương liệu linh tinh mà họ ướp vào người như ướp trà. Nếu để 3 ngày không tắm, mọi người đẹp đều có mùi MỠ THÚI, do những hạt mỡ chảy ra theo tuyết mồ hôi, bị oxy hóa. Thân nhiệt trung bình của người phụ nữ tương đối thấp, từ 36,2 độ – 36,8 độ so với đàn ông, từ  37 độ – 37,5 độ C. Vì vậy da thịt người đàn bà được tiếng là tươi mát.

Đàn bà có tính hay ăn vặt. Đây là thuộc tính dễ thấy nhất, cả thế giới đều công nhận, không thể chối cãi được. Tê ăn vặt của quí bà quí cô được các nhà y học giải thích là do những biến dưỡng ngấm ngầm và thường xuyên trong cơ thể phụ nữ. Trong thời kỳ có kinh nguyệt và thời kỳ mang thai, cơ thể người phụ nữ mất nhiều thứ, nên họ tuy ăn uống nhỏ nhẹ và ít thôi, nhưng cứ thèm ăn “xàm xạp” suốt ngày để tìm cách bổ sung kịp thời cho cơ thể những thứ đã bị biến đường hủy diệt. Đàn bà có hơi thở phập phồng dễ thấy ở những phụ nữ có bộ ngực núi lửa. Lý do là vì họ hô hấp theo cơ chế thở bằng ngực. Bắt đầu từ tuổi dậy thì đến khi mang thai, sự hô hấp ở người phụ nữ được điều khiển qua hệ thống cơ gian sườn và xương sườn trên của lồng ngực. Trong khi đàn ông và thiếu nhi thì hô hấp theo cơ chế thể bằng bụng, chủ yếu do cơ hoành ở bên trong. Do sự khác biệt này, nhìn bề ngoài thấy đàn bà có vẻ “hồi hộp” hơn đàn ông.

Thông thường khi mới sinh ra, tỷ lệ nam giới cao hơn nữ giới, nhưng nam giới lại cũng có tỷ lệ tử vong cao hơn phái nữ rất nhiều do đàn ông phải lao động, chiến đấu. Các cuộc chiến tranh liên miên trong lịch sử làm tiêu hao rất nhiều đàn ông. Cuối cùng thì tình hình chung của nhân loại bao giờ cũng là nam thiếu nữ thừa.

Nói “thừa” là trên bình diện vĩ mô.

Chứ đối với riêng từng người đàn ông thì có ông nào cảm thấy đàn bà là “thừa” đâu ?

Oi ! ĐÀN BÀ , quả là thế giới những điều kỳ diệu.

 

                                                                          HOÀNG THIẾU PHỦ

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2009

BIẾT XẤU HỖ


     BIẾT XẤU HỖ

Cuộc sống quả là “khó khăn” như ông Roh Moo-hyun trăng trối. Từ một công nhân, tự học để trở thành luật sư, trở thành một chính trị gia lên tới đỉnh cao: đắc cử tổng thống của một quốc gia dân chủ. Để rồi, sáng 23-5-2009, phải kết thúc cuộc đời bằng cách gieo mình


Tác phẩm Quyết liệt đoạt HCB cuộc thi ảnh

 nghệ thuật quốc tế tại Toronto - Canada
cuối 2008 - Ảnh: Lê Hồng Linh


xuống một vách đá sâu.

    “Tôi cảm thấy xấu hổ trước người dân của mình”, trước đó, ông Roh Moo-hyun thừa nhận khi phải đến Seoul theo triệu tập của tòa.

   Ông Roh thành công nhờ xây dựng được niềm tin của công chúng vào ông như là một chính trị gia trong sạch.

    Cái chết của ông được mô tả là gây sốc cho cả nước, từ hôm 23-5, người dân ở vùng quê ông đã xếp hàng dài, đã khóc khi quan tài ông đi qua.

    Ông nói, ông chỉ biết đến khoản tiền 6 triệu USD mà người thân ông cầm ấy khi không còn là Tổng thống.

    Rõ ràng đã có những động cơ chính trị. Nhưng, rõ ràng cũng đã có những khoản tiền lọt vào nhà, qua những người thân nhất, là vợ, là con trai, là cháu rể, là trợ lý.

     Thật là chua xót nếu ông thực sự vẫn còn trong sạch mà phải kết thúc sự nghiệp lẫy lừng trong xấu hổ bởi vợ con.

   Cũng sáng nay, 25-5, trong một diễn tiến có thể liên hệ, cảnh sát Úc xác nhận với báo chí là sẽ điều tra một vụ “môi giới” liên quan đến con trai của ông Lê Đức Thúy, cựu thống đốc Ngân hàng Việt Nam. Cảnh sát vào cuộc sau khi tờ báo The Age, có bài cáo buộc những môi giới viên cho hãng Securency đã “trả hàng triệu đôla tiền hoa hồng cho công ty CFTD”. CFTD được tờ báo này xác định là công ty mẹ của Banktech, công ty thuộc quyền quản lý của ông Lê Đức Minh, con trai ông Lê Đức Thúy, liên quan đến việc in tiền polymer hồi năm 2002.

    Chưa rõ kết quả điều tra từ Úc sẽ đi tới đâu, nhưng nếu thực sự có một khoản hoa hồng lên tới hàng triệu USD đã được chi ra thì “cánh cửa vợ con” quả thực là ở đâu cũng vô cùng lợi hại.

   Sau những Siemens, những CPI- Huỳnh Ngọc Sỹ… vụ Securency cho thấy lợi ích của Việt Nam khi hội nhập không chỉ là thương mại mà còn là khả năng phát hiện ra tham nhũng do làm ăn với những quốc gia lấy tính minh bạch làm đầu.

    Theo nguồn tin của chúng tôi, ông Lê Đức Minh được điều về Banktech bởi một ngành không liên quan đến vai trò Thống đốc của ông Lê Đức Thúy. Tuy nhiên, như kết luận trước đây của Thanh tra Chính phủ, việc ông Minh “nắm” Banktech “tuy không trái quy định của pháp luật, nhưng đã gây nghi ngờ về sự khách quan, minh bạch”.

    Banktech là một trường hợp rất hiếm được đưa ra công luận, nhưng, những mối liên hệ kiểu “Lê Đức Minh” trên thực tế không phải hiếm hoi. Vấn đề không chỉ là trái hay không trái những “quy định” hiện hành vốn đang có nhiều khoảng trống. Một nhà lãnh đạo nghiêm minh không nên để vợ con làm những việc mà dư luận có thể “nghi” về tính khách quan. Đừng đợi đến khi nhân dân đưa ra chứng cứ, phải biết xấu hổ từ những “dự án” đầu tiên mà anh em, vợ con, dâu rể… tham gia.

  Cho dù ở trong thể chế nào, ở đâu có quyền lực là ở đó có tham nhũng. Vấn đề là ở đâu, những người giàu có nhất là nhân dân; ở đâu những người giàu có nhất là “con ông cháu cha”; ở đâu, tham nhũng vẫn cứ “vinh thân phì gia”; ở đâu tham nhũng không có nơi để an toàn hạ cánh. Quốc gia nào thì tham nhũng cũng cần phải được coi là “thế lực thù địch” nguy hiểm nhất. Nguy hiểm vì nó không rõ ràng phân tuyến; nguy hiểm vì, đôi khi nó nhởn nhơ bên cạnh, và đôi khi là cánh tay đắc lực của những bậc có quyền. Chỉ ở những quốc gia biết xấu hổ, kết cục của một kẻ dính tới tham nhũng mới có thể là tù tội như cựu tổng thống Trần Thủy Biển (Đài Loan); có thể phải lưu vong như Thaksin, Thailand; có thể phải cắn rứt lương tâm như tổng thống Roh Moo-hyun, Hàn Quốc. Ở những quốc gia không biết xấu hổ thì kết cục cũng có nhiều bi thảm; nhưng, người gánh chịu lại rất tiếc là thường ở về phía nhân dân.

                                                                                Huy Đức
          
                                                        http://www.blogosin.org/?p=912

   Các bạn thân mến, Ý kiến của các bạn đã làm phong phú thêm blog của tôi. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một blog cá nhân, tôi đề nghị các bạn không post lên đây những điều mà các bạn không có căn cứ. Không dùng những lời lẽ không thích hợp với nhiều người đọc để nói về người khác và các tổ chức khác. Tôi hiểu những bức xúc của các bạn, nhưng, hãy thể hiện những bức xúc ấy theo cách mà bạn mong người khác thể hiện lại với mình.

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2009

NHẠC PHẠM DUY ...



LỜI NGƯỜI SƯU TẬP :  Tôi nghe nhạc thường không nghĩ rằng nhạc sĩ đó lý lịch ra sao ? Có mấy vợ ? Quan điểm, lập trường thế nào v.v … và tôi tin rằng nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ như vậy .   Đang nghe Bà mẹ Gio Linh hay quá mà lại nghĩ rằng bây glờ Thái Thanh đang ở bên Mỹ; phạm Duy sau khi viết bài nầy thì “dinh tê” ! Thế thì còn gì cảm hứng nữa ?   Nguyễn Lưu khi nghe bản mùa thu chết lại nghĩ Phạm Duy xuyên tạc, phản động . (Các bạn ai có đọc bài viết của Nguyễn Lưu chụp mũ PD phản động và bài trả lời của bà Lệ Giám đốc cty Văn hóa Phương Nam trả lời mới hiểu vụ nầy)   Nay lại thấy thêm 3 cây cổ thụ …còi trong làng âm nhạc viết bài trên an ninh thế giới chưỡi PD và bài Blog  của thầy giáo làng nhận xét về vụ nầy .   Xin dưa tòan văn lên để các bạn suy nghĩ . 
           
                            Ngày 20/5/2009


  

An Ninh Thế Giới Tháng 4-2009 

 Nguồn : http://www.viet-studies.info/PhamDuy_ANTG.htm]

Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói

  Khánh Thy 

 Sau nhiều lần ngoái đầu về cố quốc, Tết năm 2005, nhạc sỹ Phạm Duy chính thức trở về với quê hương, mảnh đất luôn luôn coi trọng tình nghĩa, không bao giờ “đánh người chạy lại”. Ông đã chọn TP Hồ Chí Minh làm nới sinh sống cho những năm tháng cuối đời của mình. Sau không ít những ấp ủ, liveshow ‘Ngày trở về” của Phạm Duy đã vang lên trong một đêm diễn duy nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội vào cuối tháng 3-2009.

 Sự trở về của bản thân nhạc sỹ Phạm Duy và âm nhạc của ông mới đây đã làm dậy lên một làn sóng báo chí quan tâm. Tuy nhiên, không ít điều xuất hiện trên một số phương tiện thông tin đại chúng xung quanh đêm nhạc Phạm Duy đã gây nên những bức xúc cho người chính trực.

  Nhình lại bản chất vấn đề, đánh giá một cách công bằng nhất những giá trị đích thực của Phạm Duy và âm nhạc của ông, Báo ANTG đã mở ra một diễn đàn nhỏ để mời các nhạc sỹ lớn, những người có tên tuổi có trọng lượng trong nền âm nhạc Việt Nam nói về sự kiện này. 

 Nhạc sỹ-NSND Trọng Bằng:  

Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen. Nhạc sỹ Phạm Duy nếu nói ngắn gọn chỉ 4 “thứ” thôi. Thứ nhất, anh là một người đầu kháng chiến chống Pháp có một số bài hát được quần chúng yêu thích. Thứ hai, sau khi anh bỏ Tổ quốc ra đi, không biết anh có công nhận không nhưng lúc đó cả nước người ta nói anh đi theo giặc, đi phục vụ địch. Và một số bài hát của nah, anh đã làm lời lại để phục vụ hoàn cảnh mới. Thứ ba là khi anh về nước, anh nói rằng anh trở về với nguồn cội. Anh có đến Hội Nhạc sỹ gặp tôi. Tôi cũng có nói chuyện và bảo anh rằng: Ngày xưa khi tôi còn bé, anh Phạm Duy và anh Trọng Loan (anh trai của tôi) cùng ở một đoàn nghệ thuật. Ngày xưa tôi cũng thích những bài hát của anh. Nhưng âm nhạc bây giờ khác chứ không ít ỏi như thời anh viết những tác phẩm ngày xưa nữa đâu. Cả một cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng tôi viết hàng ngàn bài hát, hàng ngàn ca khúc. Chúng tôi viết và được phát trên Đài tiếng nói Việt Nam hôm trước thì ngay hôm sau cả nước hát, và hát cho đến bây giờ. Thứ tư tôi muốn nói là anh về thì cứ về, cứ thế mà làm việc, cứ sáng tác, viết thêm được gì thì viết, cống hiến được gì thì cống hiến chứ đừng lợi dụng lúc này mà tâng bốc mình lên như vị nọ vị kia. Tuy nhiên, tôi cho rằng, sự tâng bốc này là lỗi một phần ở các nhà báo, dễ dãi và chạy theo thị hiếu, cứ coi đây như sự kiện âm nhạc lớn, Phạm Duy được tâng bốc như là nhà sáng tạo ghê gớm. Vì nói đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi. Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.  

NS Phạm Tuyên

 Hôm nhạc sỹ Phạm Duy ra đây nói chuyện nhân việc phổ nhạc các trích đoạn trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tôi có được mời tới dự. Sau đó một số người hỏi tôi về chương trình này. Tôi nói rằng đây là một sự tìm về một áng văn chương tuyệt tác của văn học Việt Nam. Nhưng nếu vào âm nhạc thì còn xa lắm so với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Tuy nhiên đó là sự biểu hiện của tìm về với cội nguồn. Riêng tôi lúc vào trong TP Hồ Chí Minh, nghe tin ông Phạm Duy về, tôi nghĩ đó là một sự trở về với nguồn cội thôi. Dân gian có câu “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Chính lúc đó các nhạc sỹ ở trong TP Hồ Chí Minh cũng cho rằng không nên làm rùm beng cái chuyện này, thậm chí báo chí đề cao quá như vừa rồi thì người ta không tán thành. Tôi lại không nghĩ như thế. Ai cũng có những sai lầm trong quá khứ cuộc đời. Trong cơ chế thị trường hiện nay có những công ty nhạy bén với thị hiếu của thị trường, người ta săn đón, mua bán quyền của nhạc sỹ Phạm Duy, xuất bản và tổ chức biểu diễn rầm rộ. Một số anh em nhạc sỹ trong Hội Âm nhạc TP Hồ Chí Minh gặp tôi và nói rằng không nên làm như thế. Còn  việc đánh giá về phẩm chất nghệ thuật thì phải nhìn cả một quá trình. Đóng góp như thế nào, sai lầm như thế nào. Nếu bây giờ chúng ta chỉ đánh giá phần đóng góp mà quên đi phần sai lầm, thậm chí gạt bỏ hết mọi sai lầm để tâng bốc đóng góp thì như thế chẳng công bằng với các nhạc sỹ trong nước. Có một số anh em nhạc sỹ sau khi đọc báo nói về “Ngày về” của Phạm Duy, sự trở lại rầm rộ, được báo chí săn đón và tâng bốc thái quá đã thốt lên: “Trời đất ơi, thế thì thành tựu âm nhạc của chúng ta mấy chục năm qua nhỏ nhoi quá nhỉ!”. Trong khi đó, tôi là người trong cuộc, cảm thấy được sức mạnh của vũ khí âm nhạc, đúng ra trong thành công của Cách mạng chúng ta, trong chiến thắng thống nhất đất nước, có sự đóng góp lớn của âm nhạc, và chúng tôi rất tự hào. Một số anh em ở Huế hỏi tôi đánh giá như thế nào về nhạc sỹ Phạm Duy, tôi trả lời hồi nhỏ tôi có thuộc và thích một số bài hát của Phạm Duy. Nhưng sau khi nhạc sỹ Phạm Duy rời bỏ đất nước ra đi, thậm chí có một thời gian đưa âm nhạc phục vụ chính quyền Mỹ-ngụy. Tôi nghĩ, rồi cũng sẽ có lúc bản thân anh Phạm Duy phải nhìn thẳng vào sự thật. Trong cơ chế thị trường hôm nay, tôi nghĩ cần phải thẩm định đúng giá trị thật những đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, không nên quá đề cao. Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng. Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam. Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.

  NS Hồng Đăng:  

Vấn đề này thực ra rất tế nhị đối với anh em nhạc sỹ. Vì đối với những người sáng tác với nhau, bao giờ chúng tôi cũng hết sức rộng lượng, nhìn nhau bằng cặp mắt tốt đẹp và mong cho nhau thành công. Riêng trong vấn đề Phạm Duy, cái nhìn của tôi có thể khác hơn. Ngay trong giai đoạn đầu kháng chiến, nhạc sỹ Phạm Duy là một trong những nhạc sỹ có ý thức khai thác vốn dân ca, đưa chất liệu dân ca vào sáng tác mới. Cho nên những “Bà mẹ Gio Linh”, những “Về miền Trung”… ngày ấy rất được nhiều người tán thưởng. Nhưng thời kỳ ấy chúng tôi đang còn bé quá. Sau này lớn lên thì có nghe tin nhạc sỹ Phạm Duy đã vào trong thành, sau đấy bẵng đi thời gian 5 đến 6 chục năm, chúng tôi cũng không mấy lưu tâm. Vừa rồi ông Phạm Duy xin phép được trở về, và được Nhà nước ta cho phép. Lúc Phạm Duy về, rất nhiều anh em nhạc sỹ vui vẻ vì thấy rằng đây là một lần quay lại của các anh em mà trước kia có một thời kỳ bẵng đi không thấy mặt nhau. Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!). Những giá trị thật của một người nghệ sỹ, thứ nhất là tinh thần yêu nước, những đóng góp tâm hồn mình cho dân tộc… So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích. Có một thời nghe nói các tác phẩm của ông cũng không được người ta ưa chuộng lắm đâu ngay cả ở nước ngoài. Điều ấy chúng ta phải có sự cân nhắc tử tế. Nếu như có sự đóng góp nào đấy thì nên ghi nhận. Nhưng đừng nghĩ rằng như thế thì tất cả các anh em khác không ra gì. Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy như Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc. Từ ngày anh ra đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Điều đáng nói là nhiều anh em thành thực mong cho anh có nhiều đêm nhạc tốt đẹp, trong khi hàng trăm hàng nghìn người không có nổi kinh phí để lo một đêm nhạc của riêng mình dù tác phẩm cứ ngồn ngộn ra đấy…Muốn nhìn nhận công bằng, nên nhích xa ra một tí để nhìn toàn cảnh. Còn nhớ năm 1994, chúng tôi tổ chức được 4 đêm, 4 chương trình khác nhau ở Nhà hát Lớn Hà Nội lấy tên là “Nửa thế kỷ Bài hát Việt Nam” chỉ giới thiệu được gần 80 bài cho 80 tác giả, trong đó riêng anh Văn Cao được 2 bài. Chương trình có tiếng vang lớn nhưng hàng trăm nhạc sỹ khác nằm chờ giới thiệu ở TP Hồ Chí Minh thì vướng quá nhiều thứ, nhất là kinh phí mà không giới thiệu được thêm nữa, đành cay đắng mà chịu thiệt thòi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm. Có thể kể Thái Cơ, Phó Đức Phương, Trần Tiến, Nguyễn Cường, Văn Thành Nho, Nguyễn Đình Bảng, Lê Mây…Tư liệu này ở Hội Nhạc sỹ Việt Nam, Viện nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam đều có cả. Anh Phạm Duy trở về, chúng tôi chúc mừng anh và mong anh khỏe mạnh để có những sáng tác mới.  

           Xem tiếp bài của Thầy giáo làng

  Entry for April 27, 2009 Phản hồi về bài: Nhạc Phạm-Duy và những điều cần nói .

                                                  *

Tôi vừa được đọc bài báo nói trên sáng nay và nhận thấy có đôi điều cần được"lạm bàn "mặc dầu,như nickname của tôi vẫn dùng trong các entries viết trước đây,tôi chỉ là một "Thầy giáo làng",có nghĩa là một người "ngoại đạo"với âm nhạc.Tuy nhiên theo thiển nghĩ của tôi,cứ gì phải là một nhạc sĩ có chân trong Hội Nhạc sĩ mới có quyền phát biểu đôi điều về âm nhạc,quyền thưởng thức âm nhạc là của tất cả mọi người,và ai cũng đều có thể đánh giá,bài hát nào hay,bài nào dở.

   Điều cần nói trước tiên là những người viết bài báo nói trên là ba vị quan chức cao cấp của ngành Âm nhạc nước ta:NS Trọng-Bằng,nguyên Tổng thư ký Hội Âm nhạc VN,NS Hồng -Đăng,nguyên phó tổng thư ký Hội Âm nhạcVN,Nhạc sĩ Phạm-Tuyên,Tổng thư ký phân hội NSVN Hà-Nội .

  Người đời thường nói:"miệng kẻ sang có gang có thép",vì vậy bài báo đó có thể coi như tiếng nói của toàn thể giới nhạc sĩ VN chăng?

  Mỗi tác giả đều có nhận định riêng của mình,nhưng có vẻ như họ đã hội ý với nhau trước về cái ý thống nhất của bài báo,đó là:Hãm phanh dư luận của giới Báo chí gần đây đã,theo lời ba vị là "Tâng bốc quá mức về thành công của những đêm nhạc Phạm-Duy tổ chức ở những thành phố lớn,cùng với tên gọi"Ngày trở về" .

   Cả ba vị đều có"Nhã ý trích ngang lý lịch"của nhạc sĩ PD mà tôi xin phép được tóm tắt như sau:PD là một NS có tham gia những năm đầu KC chống Pháp<1946-1950>,và ông đã có một số tác phẩm được nhiều ngừoi biết đến như:Nương chiều,Nhạc tuổi xanh...Ông đã có công trong việc đưa dân ca áp dụng vào các ca khúc như Dân ca Thương binh,dân ca Sông Lô...nhất là những bài Bà mẹ Do linh,Về miền Trung... sáng tác sau chuyến đi thực tế vào Bình Trị Thiên năm 1949.Hầu như cả ba vị NS khả kính trên đều áp dụng chiêu:"xoa trước,đánh sau",mà cái phần thứ hai này được viết với văn phong mà trong âm nhạc gọi là fortissimo.Họ nói ông đã "dinh tê"năm 1950,sau đó đã đổi lời một số bài hát đã làm trongKC cho hợp với hoàn cảnh mới như:bài Bao giờ anh lấy được đồn Tây thành ra bài Quê nghèo....

  Rồi sau khi vào Nam năm 1954,ông lại có một số bài có nội dung chống lại CM,,,,và,,,,

 ...Sau nhiều lần "ngoái đầu về cố quốc",Tết năm 2005.nhạc sĩ PD chính thức trở về với quê hương....Theo thiển ý của tôi,thiếu gì chữ nghĩa hay hơn mà mấy ông nhà báo lại dùng động từ "ngoái đầu"cho lời mở đầu của bài báo thêm nặng nề .

    Theo hiểu biết của tôi,việc trở về quê hương của nhạc sĩ PD mang ý nghĩa tích cực nhiều hơn là ;"sau khi ngoái đầu về nhiều lần,thấy việc trở về có thể làm mình nổi tiếng hơn ở nước ngoài thì PD mới về.'Mà cái sự nổi tiếng của Phạm-Duy thì các anh cũng thừa biết,anh ấy đã quá nổi tiếng trước khi về nước từ lâu rồi.

   Tôi nghĩ việc các nghệ sĩ Đức Huy,Elvísh-Phương...và sau đó là PD về nước,.

  ... là một biểu hiện tuyệt đẹp của chính sách Hòa hợp Dân tộc mà chúng ta đã chủ trương ngay từ sau ngày Thống nhất đất nước,nó chẳng hề mang tính chất cơ hội như một số người lầm tưởng .

 Cần gì mà ông Trọng Bằng phải viết:"PD phải tỉnh táo,vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai,quá khứ củaPD là một tội lỗi!!!!Thiết nghĩ việc đánh giá công hay tội của một con người là một việc của lịch sử,không cá nhân nào được phép nhân danh lịch sử để lên án,bôi nhọ người khác.Trong lịch sử có những người như Hồ quí Ly chẳng hạn,đã có một thời gian dài,người ta coi ông như một kẻ tiếm ngôi nhà Trần,một nhân vật phản diện.Nay sử sách đã phải có một cách nhìn khác về ông mà coi ông như một nhà cải cách lớn.Rồi nhà Nguyễn Gia Long nữa,trước đây chúng ta coi như họ là một lũ "Cõng rắn cắn gà nhà..."Nay thì họ đã được đánh giá là có công mở rộng bờ cõi về phía Nam....Lịch sử bao giờ cũng công bằng,và việc đánh giá đó nhiều khi đòi hỏi một thời gian hằng thế kỷ hay lâu hơn nữa.Chúng ta phải biết kiên nhẫn đợi chờ.Mà có nhiều trường hợp,chúng ta đâu có cần gì phải chờ đợi quá lâu ,mới có được những đánh giá đúng đắn về một cá nhân nào đó.Như trường hợp của Staline chẳng hạn.Trước khi ông chết,một caí chết đã làm cho nhà thơ Tố Hữu phải làm cả một bài thơ dài để khóc ông thì cả Thế giới đã coi ông như một người hùng của Thế chiến thứ 2,người đã chiến thắng trùm Phát xít Hitler.Vậy mà khi ông nằm xuống chưa bao lâu,các nhà lãnh đạo mới của Liên sô đã vạch ra những sai sót lớn của ông với tệ nạn"Tôn sùng cá nhân",rằng ông đã thủ tiêu nhiều đồng chí của mình.Báo chí Liên sô còn viết:có nhiều người,khi được ông "mời đến điện Kremlin họp"đã vĩnh biệt vợ con trước vì biết rằng chuyến đi này sẽ không có ngày về!!!

  Tôi còn nhớ cả chuyện Nhạc sĩ Trọng Bằng,khi ấy còn là một SV trường Dự bị Đại học,<1953>đã kịp làm bài "Ca ngợi Malencốp"khi ông này lên thay Staline,trong đó câu kết của bài là:"Hát lên Malencốp muôn đời".Rủi cho anh là Malencốp lên chưa nóng chỗ đã bị thay bởi một nhà lãnh đạo khác.Nếu không có sự kiện đó thì bên cạnh những:"Em bé Triều tiên,Bão nổi lên rồi...anhđã cóthêm một tác phẩm "để đời khác".

   Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi:Nếu có người nước ngoài nào muốn nghiên cứu về nền Âm nhạc của VN giai đoạn 1954-1975 mà chỉ thấy toàn là những:Anh vẫn hành quân,Sẵn sàng bắn,Không cho chúng nó thoát.,Bão nổi lên rồi...thì họ có thể cho rằng:"Quái sao trong từng ấy năm mà con trai,con gái nước này,họ không yêu nhau,không nhớ nhau thì làm sao họ tồn tại được nhỉ?

   May mà trong kho tàng âm nhạc của chúng ta ,sau ngày đất nước Thống nhất còn có những tình ca của Trịnh công Sơn,và sau chính sách "Đổi mới ta lại có thêm những tác phẩm của Ngô thụy Miên,Đức Huy...và sau khi ông PD về định cư ở quê hương ta lại "phục hồi nhân phẩm"cho những:"Ngàn trùng xa cách,Nha trang ngày về,Ngày xưa Hoàng thị.....Nếu không thì chúng ta ăn nói thế nào về tình trạng "trong một cái vườn hoa đẹp như nền âm nhac của chúng ta,một nền âm nhạc mà ta luôn tự hàolà;"đậm đà bản sắc Dân tộc,là vô cùng phong phú,lại thiếu đi hẳn một mảng lớn những bông hoa mà nước nào cũng có,đó là những bản tình ca,những bài hát ca ngợi tình yêu đôi lứa...Tìm đến mỏi cả mắt,mãi mới thấy có"Gửi nắng cho em,Hoa sữa,Em ơi Hà nội phố....

   Mà ở miền Bắc nước ta,đâu có thiếu người viết tình ca hay.Lừng lững như một Văn Cao,người mà cả ba tác giả khả kính nói trên đều hết lời ca ngợi,người có thể coi là ông vua,tình ca,một người có những bài nhạc sang trọng như một ông Hoàng cũng chỉ có được một số tình ca đếm đủ trên đầu hai bàn tay,mà toàn là những bài mà người ta gọi là "tiền chiến".

   Ngoài Văn Cao ra,chúng ta còn có Đoàn Chuẩn,người được coi nhu một nhạc sĩ của Mùa Thu Hà nội,ông cũng còn kịp viết ra được hơn mười tình khúc bất hủ trước khi tự nguyện treo bút vĩnh viễn sau bài"Gửi người em gái miền Nam".Còn những nhạc sĩ tài danh khác thì sao?Mỗi người trong đám họ cũng đánh bạo mỗi ngừời có được một hay hai tình ca mà mỗi lần trình diễn ,ban tổ chức cứ phải nói chệch ra là "nhạcTiền chiến" tức là loại nhạc họ viết ra từ trước CM.Tôi có đem chuyện này ra hỏi Nhạc sĩ Tô-Hải xem ông viết Nụ cười sơn cước khi nào thì ông cười mà nói:ngày trước cậu cũng có đóng quân ở Kim-Bôi không nhỉ.Năm 1948 mình đã trú quân ở đó ít lâu ,trong Bản có một cô gái người Mường tên là cô Phẩm,cô ấy rất xinh,đúng như hình ảnh mình đã viết:Hình dung một chiếc thắt lưng xanh,một chiếc khăn mầu trắng trắng ,một chiếc vòng sáng long lanh với nụ cười em quá xinh...Mình lúc đó mới 20 tuổi,cũng chỉ là thấy thinh thích thôi,chứ đã nước non gì đâu.Thế là sau khi rời Kim bôi,trong một buổi chiều mà tớ viết"trong lòng,mưa hơn cả ngoài trời>tớ đã sáng tác bài đó rất nhanh. Mà thực ra hôm đó có mưa gió gì đâu,lại còn nắng như đổ lửa ấy chứ.Nhưng,cái câu đó,cậu còn nhớ tớ học được ở đâu cậu biết không?Ở câu:"il pleut sur la route,il pleut dans. mon coeur...." trích từ một bài thơ Pháp do cụ Phương giảng từ hồi học Primaire-Sup ở Thái bình ấy mà .Thế sao gọi là "Tiền chiến"được?tôi hỏi.Anh cười nói:có nói thế mới lách được.Đoạn anh cười nói thêm:thì cũng như 'Dư âm của Nguyễn văn Tý,hắn làm năm 1950 ở khu 4,Tạ từ của Tô-Vũ làm ở Đống năm Thái binh năm 1949....Toàn là tiền chiến giả hiệu cả thôi.Phải nói thế để chứng tỏ rằng những bài nhạc lãng mạn,ủy mị đó chúng tớ viết từ khi chưa có sự lãnh đạo của Đảng.Thực sự gọi là "Tiền chiến" thì chỉ có Đêm đông của Nguyễn văn Thương,Biệt ly của Doãn Mẫn,Bẽ bàng của Lê Yên cùng toàn bộ các tình khúc của Văn Cao như Buồn tàn Thu,Thiên thai,Bến Xuân....,ngay cả Trương chi,ông cũng chỉ hoàn thành năm 1946,nghĩa là sau CM tháng 8.

    Còn nhạc sĩ Phạm Tuyên thì viết về hiện tượng báo chí ở Thành phố HCM rùm beng quá nhiều về live show"Ngày trở về" của PD.Thậm chí còn có một công ty in ấn,xuất bản bỏ hàng mấy trăm triệu ra mua toàn bộ các tác phẩm của PD đã được phép trình diễn trở lại.Rồi trong đêm"Duyên dáng VN 15 hay 16 gì đó chỉ một ca từ:"Tôi yêu tiếng nước tôi"trong bài Tình ca của PD cũng đem bán đấu giá được mấy chục triệu,như thê là quá bất công với các nhạc sĩ trong nước khác

    Có lẽ mấy vị nhạc sĩ này quên mất một điều là nền Kinh tế nước ta hiện nay là một nền KT thị trường,cho dù nó còn mang thêm một cái đuôi "có định hướng XHCN" thì điều mà những người làm KT hiện nay nghĩ đến trước tiên phải là lợi nhuận.Họ mua các tác phẩm đã được phép phổ biến của PD là một hình thức kinh doanh.

  Không lẽ họ mua:"Anh vẫn hành quân,Bão nổi lên rồi...để mà lỗ chỏng gọng ra à. Còn phần viết của tác giả ca khúc"Hoa sữa"nổi tiếng thì ông Hồng đăng có phàn nàn về chuyện năm 1994,ở Hà nội có tổ chức 4 đêm "Nửa thế kỷ âm nhạc VN" ở Hà nội rất thành công,mà sau đó không tổ chức được ở Thành phố HCM vì lý do thiếu kinh phí.Tôi tự hỏi:Sao lúc đó ông không kêu gọi các nhà làm KT đứng ra tài trợ?Hỏi vậy nhưng câu trả lời cũng đến ngay.Sở dĩ họ không dám tài trợ là vì thói thường,con người làm KT thường"Trông dỏ,bỏ thóc"Họ bỏ tiền ra cũng phải nghĩ đến sự thành công của đêm nhạc.Lỗi không phải ở họ,anh Hồng đăng ạ,họ đã được Đảng ta cho phép " làm giầu đúng luật"Thời nay,đâu phải là thời gian ông 'Vua lốp Chẩn"bị tịch thu tài sản chỉ vì có nhiều tiền một cách "bất minh".Thực ra thì tài sản của "Vua lốp Chẩn" bị tịch thu hồi đó,gọi là nhiều chứ có bao nhiêu đâu. Số tiền đó chắc cũng không đủ để chi cho một bữa nhậu của các "Đại gia"ngày nay đâu

   Anh Hồng Đăng có nói một ý là:"những anh em nhạc sĩ bây giờ,tác phẩm cứ"ngồn ngộn" ra đấy mà không có đủ kinh phí để tổ chức một đêm nhạc cho riêng mình...!Đọc chữ "ngồn ngộn" của anh viết khiến tôi cứ hình dung ra một miếng thịt quay ngon lành,được các Bà xã của chúng ta mua từ một tiệm danh tiếng ở Chợ Lớn về,rồi được những bàn tay vụng về của cánh đàn ông chúng ta dùng một con dao cùn để cắt ra những miếng thịt "to đùng",chỉ mới nhìn ,mọi người đã phát khiếp lên rồi,còn ai dám ăn nữa.

  Đúng là đội ngũ nhạc sĩ các anh hiện nay quá đông đúc,với số tác phẩm "ngồn ngộn" ra thật,nhưng xin phép anh được nói thật

   Các cụ ngày xưa nói: "Quí hồ tinh,bất quí hồ đa".Trong ngành Giáo dục của chúng tôi,các vị có trách nhiệm cũng đề ra tiêu chí:"ít mà tinh"trong việc dậy học,dậy ít kiến thức thôi,nhưng là những gì thật cần thiết,không dậy lan man những kiến thức vô bổ.Điều này tôi nói có hơi lạc đề với vấn đề âm nhạc của các anh,nhưng xin thú thực với anh là:một nền Giáo dục mà để cho các con,các cháu chúng ta phải đi học"Luyện thi vào lớp 1" ,phải đeo chiếc cặp to đùng đến vẹo cả sống lưng khi đi học thì đó là một điều kinh tởm,đáng xấu hổ.

    Trở về với vấn đề Âm nhạc của các anh,Số tác phẩm của các anh có"ngồn ngộn" thực nhưng là những bài như:"đàn ông là như thế",Giữa anh và người ấy,em chọn ai","kiếp đỏ đen"....Những cái tựa đề như thế,chỉ mới đọc thấy thôi đã thấy "chết khiếp "đi rồi,nếu nghe xong cả giai điệu lẫn ca từ của chúng,kèm theo những động tác múa minh họa với các cô,các cậu người mẫu giật đùng đùng cứ như người bị cơn động kinh ấy ,thì..."chết thật"

   Những đêm nhạc mang những tựa đề mỹ miều như"Bài hát Việt tháng x,y,z..."chỉ có tác dụng làm cho các bà nội trợ của chúng ta mừng rơn vì:"Tháng này lại đỡ được ít tiền điện đây"vì cứ đến giờ phát sóng ,các bà cứ việc tắt TV đi mà không gặp sự phản ứng của các đức ông chồng.Nói thêm là các bà chỉ sợ đêm nào mà AC milan gặp MU hay Real Madrid gặp Liverpool thôi,tiền điện cứ là tăng vùn vụt

   Anh Hồng Đăng còn viết:"các nhạc sĩ bây giờ khai thác dân ca giỏi hơn anh nhiều lắm anh Duy ạ.Sau đó anh kể một lô.một lốc những Thái cơ,Phó đức Phương,Nguyễn Cường,Trần Tiến,Văn thành Nho,Nguyễn đình Bảng,Lê Mây...

   Ý kiến này,theo ý tôi ,anh viết hơi vội vàng đấy.Ai giỏi hơn ai là một vấn đề không dễ thẩm định như vậy đâu.Nó chẳng rõ ràng như Barcelona thắng Real Madrid2-0 thì Barca giỏi hơn RM.Mà thắng hôm nay nhưng lần sau có thể lại thua chứ

      Trở lại với câu anh viết ở trên tôi thấy anh hơi "bất công"với thế hệ các nhạc sĩ lớp trước như Phạm-Duy,Dương thiệu Tước....

   Thời của các anh đó mà viết được những ca khúc mang âm hưởng dân ca đồng bằng Bắc bộ như Dân ca Thương binh,Dặn dò..,những bài mang âm hưởng Bình trị Thiên như Bà mẹ do Linh,Về miền Trung,Quê nghèo...Đêm tàn Bến Ngự,Tiếng xưa.....theo tôi là giỏi vì các anh đó là những người đi tiên phong trong vấn đề đưa dân ca vào ca khúc,ngày ấy vấn đề này mối manh nha,chưa có chủ trương rõ ràng như bây giờ.Đòi hỏi PD phải viết được chùm ca khúc mang âm hưởng Tây nguyên như Nguyễn Cườnghay chùm ca khúc mang âm hưỡng Chăm của Trần Tiếnlà một chuyện không tưởng.Lúc đó đang là KC chống Pháp<1949>,làm sao PD có thể vào các buôn làng Tây nguyên như Nguyễn Cường đã làm ngày nay.Còn những gương mặt khác mà anh kể thì tôi thấy chưa thuyết phục lắm với những bài như:, "Rặng trâm bầu,Mùa hoa đỏ,Đất nưởc lời ru...những bài như thế này thì đâu hơn được những gì các anh Duy,anh Tước đã viết từ hơn 50 năm về trước

    Theo tôi nghĩ nếu anh muốn dẫn chứng những gương mặt vận dụng tài tình dân ca vào ca khúc thì anh nên nhắc tới anh Nguyễn văn Tý với "Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh,Người đi xây hồ Kẻ gỗ,với âm hưởng của hát Ví dặm Nghệ Tĩnh và sau này là "Dáng đứng Bến Tre."với âm hưởng dân ca miền Tây Nam bộ.

  Tôi xin phép cả ba Nhạc sĩ nói trên được nói lên một điều mà trách nhiệm,theo tôi nghĩ,không hoàn toàn thuộc về các anh,nhưng vì các anh là những người đã từng lãnh đạo giới nhạc sĩ cả nước.Không nói với các anh ,tôi biết bầy tỏ cùng ai

  Trong bài báo đã nêu trên,tôi thấy tuy mỗi người có một ý riêng,nhưng có một điều mà cả ba anh đều thống nhất:đó là khi nói về anh Văn-Cao,cả ba anh đều đánh giá rất cao về tài năng và nhân cách của con người này.It khi có được một sự nhất trí cao trong việc đánh giá về một con người như vậy,nhất là trong giới Văn nghệ của các anh.Vậy có khi nào,các anh nghĩ rằng,kể từ sau vụ án "Nhân văn giai phẩm",sẩy ra từ hơn 50 năm trước,một tài năng lớn như Văn-Cao đã phải "ngồi chơi sơi nước"trong suốt mấy chục năm trời,không được viết lách gì cả.Anh chỉ được đến cơ quan để trình bầy mấy cái bìa sách cho bạn bè,hay là đến vẽ poster cho mấy vở kịch.Mốt sự "lãng phí chất xám" đến mức không thể nào tưởng tượng nổi

   Hồi đó,có kẻ độc miệng đã thốt lên:"cái ông Văn Cao này cạn nguồn cảm hứng rồi,viết lách gì được nữa"

   Thật không ngờ,sau ngày đất nước Thống nhất,Tết năm 1976,anh Văn Cao cho ra đời bài"Mùa Xuân đầu tiên"với phong cách rất"Văn cao"từ giai điệu cho đến ca từ.Người lại tìm thấy trong cái thân hình già yếu của ông,một tâm hồn trẻ trung như thuở ông viết"Trường ca Sông Lô,Làng tôi...."vậy

   Thậm chí,người ta,còn tổ chức cả một cuộc thi làm bài Quốc ca mới để thay cho bài:"Tiến quân ca",bài ca đã từng đi cùng Dân tộc qua tất cả những thăng trầm của đất nước.Cũng may cho các anh,và cũng là đại phúc cho dân tộc là cuộc thi đó không có ai trúng giải,và cũng không thấy hội Nhạc sĩ tổng kết cuộc thi đó.Cái kết thúc có hậu đó,theo thiển ý của tôi,là một chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta.Dân ngoại đạo chúng tôi xin phép ba anh để gọi nó là"Một trận Điện biên phủ trên lĩnh vực Âm nhạc".Mà người nào đã đề nghị bỏ lửng cuộc thi đó,theo tôi xứng đáng được gắn một Huân chương cao quí của nhà nước ta.

  Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng,nhưng tôi cũng xin phép các anh để nói một điều là khi đất nước ta còn bị chia cắt làm hai miền,thì ở trong Nam cái gọi là "Việt nam Cộng hòa"vẫn dùng bài "Tiếng gọi Thanh niên" của anh Lưu hữu Phước làm "Quốc thiều"của họ.Họ không biết Lưu hữu phước là ai chăng?Tôi tin rằng có thể họ còn biết rõ hơn chúng ta nữa vì anh Phước là người miền Nam mà.Và họ cũng chẳng lạ gì chuyện cái ông Huỳnh minh Siêng đang kêu gọi"Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng..."để lật đổ họ cũng vẫn chỉ là Lưu hữu Phước mà thôi. .

   Vậy giữa chúng ta và họ,ai là người "Bao dung" hơn ai?

   Còn một ý này nữa,nhân đây cũng xin phép cả ba anh nói ra cho hết nhẽ.Trong cả ba phần viết của các anh,các anh đều răn đe anh Phạm-Duy không được so sánh mình với bất cứ nhạc sĩ kháng chiến nào khác,đặc biệt là so mình với Văn cao.

    Tôi có được đọc cuốn "Nhớ",hồi ký của Phạm Duy do nhà Xuất bản Trẻ xuất bản.Trong cuốn đó,tôi có thấy anh Phạm Duy so sánh mình với một ai đâu.Còn trong những phần ,anh ấy nói về Văn Cao,về con người và tác phẩm của Văn- cao,anh ấy không hề có ý gì muốn được so mình với Văn Cao,mà chỉ thấy anh ấy hết lời ca ngợi về những gì mà Văn cao đã viết từ trước đến khi anh được "ngồi chơi sơi nước"

   Xin phép được dẫn ra đôi dòng PD đã viết về VC để có dẫn chứng

   Trong trang 99 của cuốn"Nhớ" nói trên,PD đã viết: ...

   Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm tân nhạc thì những bài Suối mơ,Bến xuân là cực điểm của lãng mạn tình trong ca nhạc VN.Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa!Sẽ có nhạc tình cảm,nhạc não tình....nhưng không thể có thêm những bài nhạc lãng mạn nào hay hơn nhạc Văn-Cao...

   Không cần phải dẫn chứng thêm những gì mà PD viết về VC nữa.Chừng ấy đã quá đủ để chứng tỏ là PD đã đánh giá về VC chắc chắn là cao hơn ,kính trọng hơn những người đã tổ chức ra cái cuộc thi "Quốc ca",một sự kiện mà theo tôi,là một "Quái thai".lớn nhất của hậu bán thế kỷ thứ 20,nó chỉ có thể sẩy ra duy nhất trong nền Tân nhạc nước ta.Cũng xin phép được nói thêm một sự kiện nữa,tuy không sẩy ra ở ta,nhưng nó cũng là một sự kiện liên quan đến vấn đề Quốc ca một nước.Đó là việc,tuy ở Liên bang Nga,thể chế chính trị đã thay đổi hẳn,nhưng họ vẫn lấy bài Quốc ca thời Liên sô làm Quốc thiều của mình.Chỉ riêng một sự kiện này cũng đủ thấy ,vừa qua,chúng ta đã làm một việc"Không giống ai"!!!

   Một kẻ ngoại đạo về nhạc như tôi mà đã dám bàn hơi dài về một bài báo không dài lắm,kể cũng hơi "bạo phổi",phải không thưa ba anh

   Những ý kiến của tôi có thể đúng hay sai,đó là lẽ thường tình.Nếu có gì quá sai lầm,mong các anh cứ chỉ bảo,nếu xác đáng tôi xin lĩnh ý.Động cơ chính của tôi trong bài viết này là chỉ mong giới nhạc sĩ chúng ta nên có một cái nhìn rộng lượng và bao dung hơn về anh Phạm Duy,một con người mà khi bắt đầu KC,đã có những đóng góp nhất định cho nền âm nhạc của chúng ta.Sau đó anh đã từ bỏ chúng ta để đi về phía bên kia.Nhân vô thập toàn mà,ai mà chẳng có những sai lầm trong cuộc đời.

   Nay anh ấy đã ngấp nghé tuổi 90,nghĩa là đã đến rất gần vớinhững ngày cuối của đời mình.Anh trở về Tổ quốc có lẽ cũng là một sự chuẩn bị cho ngày"Lá rụng về cội"

   Theo tôi nghĩ, ở tuổi anh ấy,còn tìm vinh quang,tìm nổi tiếng làm gì nữa.Nếu Báo chí có hơi rùm beng về những đêm nhạc của anh thì đó là việc của họ.Anh ấy đâu còn có động cơ nào để mua chuộc họ nữa,mà để làm gì nữa khi con người đã ý thức được ngày về với cát bụi chẳng còn xa nữa

  Hãy rộng lượng vơi mọi người hơn nữa các anh ạ,bởi vì cả chúng ta nữa,trước sau chúng ta cũng sẽ gặp lại nhau cả thôi.Khi đó mọi giận hờn,yêu ghét phỏng còn có ý nghĩa gì nữaMột lần nữa,xin lỗi các anh về sự mạo muội này của tôi.

    Saigon,đầu hạ 2009

    Thầy giáo làng Vĩ Thanh

    Tôi đã viết xong entry này từ hôm 29-4,nhưng ngày hôm qua,nhân ngày lễ lớn 30-4,tôi có đến thăm một người bạn già,đó là nhạc sĩ Tô-Hải,một người đã từng rất nổi tiếng trước đây,với những tình khúc như:Nụ cười Sơn cước,Qua sông lại nhớ con đò...và trên hết là Cantate;"Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy",một bản Hợp xướng mang tính chất của nhạc bác học của nền Tân nhạc nước ta.

     Ông cho biết là ông có đọc bài viết của tôi ,và ông muốn bổ xung một số điễm mà theo ông,tôi viết chưa được rõ ràng.

    Dưới đây là những điểm mà ông đã bổ xung cho những gì tôi viết còn chưa đầy đủ: Ông nói cuộc thi quốc ca năm đó là do ông Tố Hữu,khi đó còn sống và đang giữ một chức vụ rất cao trong chính phủ,đã chỉ thị cho ông Đỗ-Nhuận,khi ấy cũng còn sống và là Chủ tịch Hội Nhạc sĩViệt-Nam phải vận động toàn thể các nhạc sĩ hội viên ,ai cũng phải tham gia.Làm xong sẽ có một Hội đồng thẩm định để chọn ra 10 bài hay nhất để biểu diễn trước Quốc hội và có một ban giám khảo gồm các nhạc sĩ có uy tín đứng ra chấm giải.Bài nào hay nhất sẽ có giải thưởng rất cao,và nếu Quốc hội cũng nhất trí htì bài đó sẽ được chọn làm Quốc ca mới thay cho bài "Tiến quân ca" của Văn-Cao.

   Có một chi tiết khá thú vị mà ông bạn Nhạc sĩ của tôi ,vừa tủm tỉm cười vùa nói là:ai có bài thi thì lúc nộp bài,sẽ được tạm ứng một số tiền tương đương với 500.000 đồng bây giờ ,gọi là tiền bồi dưỡng.

   Ông nói thêm,vì lý do cơm áo và cũng vì khoản bồi dưỡng quá hấp dẫn này mà hầu hết các nhạc sĩ hội viên,ai cũng có bài dự thi,mà toàn là những tác phẩm đồ sộ như đại hợp xướng,trường ca,phối âm phối khí rất chuyên nghiệp,với phần nhạc đệm do Giàn nhạc Giao hưởng phụ họa.Có điều lạ là có người chỉ gửi phần ca từ đến dự thi ,kèm theo lời đề nghị là có ai nhất trí thì làm ơn "phổ nhạc" dùm

    Đoạn,không chờ tôi hỏi,ông đã nói ngay:cả tớ nữa .Tuy chả hào hứng gì với một cuộc thi không giống ai,tớ cũng phải cho ra một bài hát mà cho tới giờ,tớ chẳng nhớ nổi tí gì.Ngày đó tiền khó kiếm lắm, không dễ như bây giờ đâu.Tự nhiên có được 500.000 đồng đễ ăn phở,thằng nào chả làm

   Thế sau đó tổng kết ra làm sao,tôi hỏi

   Ông cười trả lời:"Tất cả những bài dự thi đó ,sau khi chọn ra được 10 bài hay nhất đã được đem ra biểu diễn trước Quốc hội rất rầm rộ,chỉ thương cho mấy cụ già đại biểu Quốc hội,tự nhiên phải ngồi nghe 10 bài hát trong mấy tiếng đồng hồ,mệt chết người đi được,mà ai mà nghe được đến cả chục bài hát như vậy được,kể cả cánh nhạc sĩ chúng tớ.Rồi lại còn phaỉ đánh giá xem bài nào hay nhất nữa chứ.

   Đến đây tôi ngắt lời ông để hỏi:trong số 10 tác giả được chọn đó có những tên tuổi nào?có anh không?

  Anh cười trả lời:làm sao tớ lọt vào số đó được,chỉ có những"tai to mặt lớn"như Đỗ Nhuận,Trọng Bằng,Huy du...hình như có cả La Thăng nữa thì phải

  Sau cùng,cả Quốc hội nhất trí vẫn dùng bài "Tiến quân ca" làm quốc thiều,chỉ yêu cầu đổi mấy ca từ nghe có vẻ không được nhân bản lắm như: Thề phanh thây,uống máu quân thù...hay:"tiến lên cùng thét lên,nghe có vẻ hiếu chiến quá

   Đoạn ông bạn tôi nói tiếp:"Đây có lẽ là lần duy nhất mà ở nước ta có sự "không nhất trí giữa hai cơ quan Hành pháp và Lập pháp,mọi lần khác thì mấy ông nghị của chúng ta chỉ có việc mà "gật đầu "mỗi khi "chính phủ " hỏi các vị có OK với một vấn nào đó không.

     Đoạn ông cười mà hỏi tôi thêm:Mà cậu có biết ai là người thất vọng nhất trong vụ"Đảo chính hụt" này không?;

  Tôi lắc đầu ra vẻ không biết,thì ông vừa cười,vừa nói:

   Dĩ nhiên,người thất vọng nhất là ông Tố Hữu,người bầy ra cái trò "Thi Quốc ca "này để hạ bệ Văn-Cao,còn trong đám nhạc sĩ thì Đỗ Nhuận là người buồn nhất,vì ngày đó,ông ta đang là chủ tịch Hội NSVN,nếu có người trúng giải thì sao lọt khỏi tay ông ta được.

  Đầu đuôi câu chuyện"Thi Quốc ca "là như thế,thế mà bây giờ tôi mới được biết.Không biết tôi nên cười hay nên khóc đây?

   Tôi xin phép được khép lại bài viết này ở đây.Xin thành thật cáo lỗi những ai đã quan tâm,vì lý do đã lấy của các vị quá nhiều thời gian để đọc nó.

     Thầy-Giáo-Làng
Monday April 27, 2009 - 04:23am (PDT) Permanent Link |

http://blog.360.yahoo.com/blog-l6d9Jzs5equCOax5sHxEkZQ5hw--?cq=1