Thứ Ba, 5 tháng 5, 2009

NGHE NHẠC THẾ NÀO ?









Tư thế (nghe nhạc) nào dễ lên đến đỉnh ?

    Nikonian tôi vốn chẳng dòng hào kiệt, lại thích hóng hớt, nên nghe người ta cãi nhau cái gì cũng vểnh tai nghe. Sẵn có cuộc tranh luận này quá hay, em copy về blog này, làm một entry mới cho bà con thưởng lãm, đỡ phải trèo tường.

   Câu chuyện gồm 4 chương:

   Chương 1: Ôi trí tuệ cao thâm! (Trương  Thái Du)

                           CÓ KHÔNG KẺ SĨ TRỊNH CÔNG SƠN

Tác giả: Trương Thái Du

Nguồn: Talawas Blog ngày 14/04/2009

   Theo Khâm định Việt sử, tháng Tám, mùa thu, năm Nhâm Tuất 1202 vua Lý Cao Tông “Sai nhạc công đặt ra nhạc khúc gọi là “Chiêm Thành âm”. Nhạc khúc này giọng sầu oán não nùng, ai nghe cũng rỏ nước mắt. Nhà sư Nguyễn Thường nói rằng: “Tôi nghe nói: thanh âm của nước loạn thì ai oán giận hờn. Nay chúa thượng rong chơi vô độ, kỷ cương triều đình rối ren, lòng dân ngày một ly tán. Tiếng nhạc ai oán làm não lòng người! Đó là triệu chứng bại vong”.

   Chỉ hơn hai mươi năm sau, nhà Trần đoạt ngôi của họ Lý.

Ở phiên bản talawas cũ, tác giả Nguyễn Hữu Liêm có bài viết “Cái âm điệu tủi thân bi đát“. Ông dẫn: “Cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm, hai nhà hiền triết Ðông Tây, Khổng Tử và Socrates, đã đồng lúc khuyến cáo đến cái tầm quan trọng của âm nhạc. Âm nhạc là sinh khí của tinh thần. Hễ nhạc xuống là nước nhà xuống; hễ nhạc uỷ mị là con người tha hóa. Cái thối nát của con người khởi đi từ sự thối nát của âm nhạc”. Và “Nietzsche trong cuốn The Will to Power có nói tới cái tâm thức amor fati - cái bệnh tủi thân, cái lòng yêu số phận bi đát của mình. Cái bệnh amor fati của dân Việt khởi đi từ Truyện Kiều và kéo dài cho đến ngày nay.

   Từ Kiều qua nhạc Chàm, qua nhạc Huế, qua vọng cổ, qua nhạc bolero đã làm cho miến Nam ngồi xuống vỉa hè, che mặt và lau nuớc mắt. Cái quần chúng lau nước mắt này bị lưu đày qua đất mới và tiếp tục uống nước dừa tang thương bằng âm nhạc”.

   Gần đây, khởi đi từ một bài viết của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn, dư luận xã hội Việt Nam bỗng xôn xao khác thường. Nó có phần lấn át, dù chỉ là tức thời, sự chú ý của mọi người về vận nước trong các vấn đề Biên giới - Biển - Đảo và khai thác quặng nhôm ở Tây Nguyên.

   Trong đám đông dư luận “phù Trịnh”, có ai đó đã nói tham vọng chính trị của họ Trịnh chính là phản chiến, là hòa bình. Hãy lắng nghe ý kiến của một người dân thường cùng thời với Trịnh Công Sơn: “Hồi đang học những năm đầu của bậc trung học, khoảng những năm 65, 66… tôi bắt đầu nghe nói về một thứ nhạc của ai đó, khi nghe có cảm giác rã rời như hút ma túy, lính chiến nghe nó không còn muốn chiến đấu nữa. Một hôm đứng trong một hiệu sách, tôi nghe tiếng hát lê thê như lời cầu kinh vọng ra từ máy thu băng. Người bán sách nói với mấy người đang trả tiền đó là nhạc của Trịnh Công Sơn. Nhạc phản chiến đấy”(1).

    Không phải ai cũng xem Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài ba, vĩ đại. Ông không sáng tác nhạc. Ông chỉ hát thơ như Văn Cao nhận xét: “Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim…”(2). Số đông ít khi nghi ngờ họ Trịnh là nhạc sĩ, là cây cao bóng cả trong nền âm nhạc Việt Nam hôm qua, hôm nay và mãi mãi về sau. Bởi lịch sử ngắn ngủi của tân nhạc Việt Nam gần như không có chuẩn nhạc sĩ rõ ràng, và lại càng không có “nhạc sĩ vĩ đại” để mà so sánh sự nghiệp cũng như thành tựu nhạc thức.

   Thi thoảng từng có không ít công dân trung niên của nước Nhật bẽ bàng, nước Nhật thua trận, nước Nhật nhục nhã sau thế chiến thứ hai, đồng cảm một cách lạ lùng với “nhạc” Trịnh. Đồng khí tương cầu chăng? Ca khúc “Diễm xưa” của họ Trịnh được đại học Kansai Gakuin đưa vào giảng dạy trong bộ môn văn hóa Việt Nam, hình như dưới chiêu PR của công ty kinh doanh âm nhạc Myrica. Sau đợt Khánh Ly đem chuông Trịnh đến “đánh” ở Osaka năm 1970, ca sĩ dòng nhạc “sến” enka Yoshimi Tendo cũng từng nhiều lần hát nhạc Trịnh(3).

   Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều văn nghệ sĩ xuất thân từ phong trào sinh viên tranh đấu của mặt trận giải phóng đã rỉ tai nhau câu vè “Sơn vàng, ôm guitar đỏ hát nhạc màu da cam”. Nếu ca khúc “Cát bụi” rất hợp với vỉa hè bolero của Sài Gòn, chính thức đóng dấu xác nhận tác phẩm của Trịnh Công Sơn trước 1975 có một phần quan trọng là nhạc vàng ru ngủ, bạc nhược và ủy mị; thì dòng nhạc “Da cam” của ông bên cây “guitar đỏ” không thể không nhắc tới những “Em ở nông trường em ra biên giới”, “Huyền thoại mẹ”… sống sượng, yếm thế và a dua dựa dẫm.

   Người ta sẽ còn ca ngợi và nói nhiều về Trịnh Công Sơn, trong đó chắc chắn có tiếng góp đầy trọng lượng của những ai vẫn hưởng lợi trên di sản của ông. Kể ra, phải nói Trịnh Công Sơn thật may mắn. Chẳng bì với Dương Hùng thời Tây Hán, làm sách Thôi Huyền, Pháp Ngôn nhưng bị đời khinh bỉ quên lãng vì thất thân với Vương Mãng. Chẳng hổ như Thái Mão đời Đông Hán soạn hết cả Cửu Kinh, làm văn bia ở trước nhà Thái Học nhưng trót lụy Đổng Trác nên danh nhơ tiết nhục, chẳng ai thèm đọc sách(4).

   Mai này, ở tương lai nào đó, may phúc dân tộc Việt Nam không còn “lòng yêu số phận bi đát của mình”, không còn mặc cảm nhược tiểu và yếm thế thì cái hồn của ca từ Trịnh Công Sơn sẽ mai một. Người ta sẽ ném những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán của ông vào sọt rác ký ức. Lúc ấy, nếu tình cờ con cháu chúng ta tiếp xúc với “nhạc” Trịnh, có lẽ chúng sẽ lấy làm ngạc nhiên mà ướm hỏi: “Trình độ âm nhạc của tổ tiên mình tệ đến thế ư?”. Đừng mơ chúng sẽ nghi hoặc: “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?”.

                                                                     Thảo Điền tháng 4.2009

    Chương 2: Câu thơ, í lộn, màng nhĩ và yên ngựa (Đào Hiếu)

                                        MÀNG NHĨ HAY YÊN NGỰA?

   Trương Thái Du thân mến,

   Đến giờ, tôi vẫn coi em như một người em dù tôi vẫn “nể” cái kiến thức của em về ngành “cổ sử”. Nhưng kiến thức cũng chỉ là một thứ nguyên liệu, muốn dùng được, muốn bày biện ra thành món ăn trên bàn tiệc (hay quán cóc) đều phải được nấu nướng. Mà nấu nướng là một nghệ thuật. Mà nghệ thuật thì đòi hỏi tài năng và cảm thụ tinh tế.

   Tôi chơi với em, biết em có tài, nhưng tôi cũng biết là em thiếu một thứ rất quan trọng, đó là cảm thụ nghệ thuật.

   *

    Bài viết “Có không kẻ sĩ Trịnh Công Sơn?” của em là một thí dụ.

   Một bài viết hay, hoàn toàn không giống cái móc áo trong phòng ngủ để cho người viết có thể mắc lên nào là “Khâm định Việt sử” nào là “Nietzsche”, nào là “Chiêm Thành âm” nào là “amor fati” nào là “Dương Hùng thời Tây Hán”… mà nó phải là một sáng tạo độc đáo. Bài viết ấy có thể không cần trang trí những tư liệu rườm rà, không cần những tấm huy chương khoe mẽ trên ngực áo, nhưng nó vẫn đẹp, vẫn cuốn hút như cái ngực trần đầy sức sống của một cô gái trẻ.

     Bài viết của em, nếu dẹp bỏ những thứ lỉnh kỉnh trên cái móc áo ấy đi thì chỉ còn là cái móc áo, chỉ còn là tấm ngực lép kẹp của một cái xác ướp trong ngành cổ sử mà em đang nghiên cứu.
 
    *

   Vì sao tôi kết luận như vậy?

     Vì trong bài viết ấy, em đã bị cái ước muốn phô trương kiến thức làm cho nó giả tạo:

   -Trước nhất, cái quan niệm cho rằng: “Tiếng nhạc ai oán làm não lòng người! Đó là triệu chứng bại vong”. Là một quan niệm đã lỗi thời rồi. Bởi vì không phải chỉ có Trịnh Công Sơn mà Joan Chandos Báez, một người Mỹ sinh tại New York cũng đã từng hát nhạc phản chiến và được tôn vinh là “bà hoàng của dân ca” và được nhân dân Mỹ coi là “ Đức Mẹ của dân nghèo”.

   Tôi không biết em có từng nghe Joan Baez hát chưa, nếu đã từng, em sẽ thấy rằng giai điệu của bà còn “ảo não, bi thương” hơn họ Trịnh nhiều. Nhưng bà là người Mỹ, và âm nhạc của bà có làm cho nước Mỹ “tủi thân bi đát” gì đâu?

   Vả lại, nhạc Trịnh không có gì là tủi thân bi đát. Nhạc Trịnh là phận người, là tình yêu, là thất tình, là mê gái, là hoài mong, là nỗi chết, là ước mơ về một cõi phúc, là “tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay”.

   Nếu bảo âm nhạc phản ánh tâm hồn dân tộc, đời sống, ý chí và ước nguyện của nhân dân thì tôi khuyên em nên đến Bình Nhưỡng, ở đó em sẽ nghe toàn nhạc hùng tráng, nhạc hy vọng, nhạc reo vui nhưng nhân dân Bắc Hàn thì lầm than khốn khó như bầy nô lệ…và cả ở Bắc Việt Nam trước năm 1975 nữa…em đã quên rồi sao?

        *

Khi Văn Cao viết: “Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ, hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim…” thì rõ ràng là ông đã ca ngợi Trịnh Công Sơn hết mình, sao em lại nghĩ là chế trách? Ngay cả khi Văn Cao cho rằng Trịnh Công Sơn đã “hát thơ” thì đó cũng là lời bái phục cao nhất mà một nhạc sĩ có thể tặng cho một đồng nghiệp của mình. Rất nhiều người từng đồng ý với Văn Cao khi cho rằng ca từ của Trịnh Công Sơn đẹp như thơ, bởi nó mới mẻ, chắt lọc và nhiều khi rất hồn nhiên:

     Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô

      Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa

      Rừng Thu lá úa em vẫn chưa về

     Rừng Đông cuốn gió em đứng bơ vơ.

    (Rừng xưa đã khép)

      Hoặc:

    Về trên phố xưa tôi ngồi

    Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi

    Chợt như phố kia không người

     Còn lại tôi bước hoài.

(Lời thiên thu gọi)

          *

   Còn thái độ này nữa. Em có ý gì khi viết: “Người ta sẽ ném những mớ nốt nhạc dễ dãi tuyền giọng mi thứ nhàm chán của ông vào sọt rác ký ức. Lúc ấy, nếu tình cờ con cháu chúng ta tiếp xúc với “nhạc” Trịnh, có lẽ chúng sẽ lấy làm ngạc nhiên mà ướm hỏi: “Trình độ âm nhạc của tổ tiên mình tệ đến thế ư?”.

     Trước nhất Trịnh Công Sơn không dễ dãi, vì nhạc Trịnh lấp lánh và biến ảo đến độ làm ta ngạc nhiên, chính Văn Cao phải thốt lên: “những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ”. Ngoài ca từ đẹp thì giai điệu của Sơn cũng rất linh hoạt, khi thì như dân ca, khi thì như đồng dao, khi thì như kinh kệ, như lời ru, như lên đồng, như tự sự… Sơn không chỉ có “giọng mi thứ nhàm chán” mà còn Fa trưởng (1 dấu giáng - Những con mắt trần gian), Fa thứ (4 dấu giáng – Tình xót xa vừa), Ré trưởng (2 thăng – Hãy khóc đi em), Do thứ (3 giáng – Rồi như đá ngây ngô). Do trưởng ( không dấu - Đoá hoa vô thường, Hãy cứ vui như mọi ngày)… và hàng trăm bài khác không soạn trên “cung mi thứ”.

   Nhạc Trịnh rất dễ nhận ra không phải vì “cái cung mi thứ nhàm chán đơn điệu” nhưng là vì Sơn có phong cách riêng. Trong văn học nghệ thuật, phong cách riêng rất quan trọng. Phạm Duy cũng có phong cách riệng, Văn Cao cũng vậy. Đang đi ngoài phố, chợt thoáng nghe vài nốt nhạc thánh thót, hư ảo như thần tiên là biết ngay Franz Liszt, hoặc nghe tiếng piano reo vui tuơi mới là biết Mozart, hoặc thơ mộng lãng mạn thì nếu không là Nocturne số 1 cung Mi thứ, cũng là Valse số 7 Do thăng thứ của Chopin. Đó là phong cách riêng. Đó không phải là sự đơn điệu.

      Tôi không rõ em có biết chơi đàn và có hiểu gì về âm nhạc không nhưng khi đọc bài viết của em, trong trí tôi hiện lên dòng chữ viết theo lối thư pháp rất đẹp: “đàn gảy tai trâu”. Cái màng nhĩ của con “quái ngưu” này nó dày như cái yên ngựa, làm sao có thể cảm nhận được những tinh tế của từng giai điệu, từng tiết tấu mong manh lất phất của một hạt mưa bụi, một tiếng gà trưa, một dấu hài trên sông?

     *

   Tôi không biết Yoshimi Tendo là ai, là ca sĩ “sến” hay ca sĩ hàn lâm nhưng tôi đã nghe chị hát một ngàn lần trên nền nhạc đệm của một tay piano tài hoa (có lẽ từng đệm nhạc cho Đức Mẹ Vô Nhiễm trên thiên đường).

   Tôi đã nghe và tưởng như mình đang ở trong thánh đường. Giọng của Yoshimi Tendo rất huyền ảo, sang cả, có thể sánh ngang với Bạch Yến của Việt Nam. Chỉ có những kẻ lòng trĩu nặng hận thù và đầy ác ý (tại sao lại như vậy?) mới có thể vô lễ với Trịnh Công Sơn và Yoshimi Tendo đến như vậy.

   Có thể có người không đồng ý với tôi về giọng ca của Yoshimi Tendo nhưng chị đã được một tay piano tài hoa như thế đệm đàn, chứng tỏ giọng ca của chị không phải tầm thường.

           *

   Cuối cùng là “Huyền thoại mẹ”. Có thể họ Trịnh đã viết ca khúc ấy theo đơn đặt hàng, nhưng điều đó có gì quan trọng? Nguyễn Văn Tý viết “Dáng đứng Bến Tre” “ Cô nuôi dạy trẻ”… không phải theo đơn đặt hàng sao? Nhưng tài năng vẫn là tài năng. Huyền Thoại Mẹ là một trong những “kiệt tác” của Trịnh Công Sơn. Chỉ có những kẻ tâm hồn đã hóa thạch, màng nhĩ đã dày như cái yên ngựa thì mới không xúc động trước một “Huyền thoại mẹ” cho dù đó là bà mẹ của những anh du kích. Sao thưởng thức âm nhạc mà cũng chia phe chia đảng nhỉ?

     Ở châu Âu, trong suốt ba thế kỷ 17,18 và 19 nhiều nhạc sĩ lớn cũng đã sáng tác để phục vụ cho triều đình, hoàng tộc như các nhạc sư Henry Purcell (Anh) Handel (Ðức) Vivaldi (Ý). Ngay cả những thiên tài như Franz Liszt, Mozart, Beethoven cũng đã từng viết theo đơn đặt hàng của triều đình.

     Tôi rất thích cái comment của ông Nguyen Austin: “Tôi không phải là người “phù Trịnh” hay nói đúng hơn tôi là người “phù “cả Phạm với Phạm Duy, Phạm Đình Chương, phù luôn Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên ….của miền nam nhưng tôi cũng phù luôn cả Văn Cao, Nguyễn Văn Tý với “ tấm áo ấy con qúi hơn tất cả,…” ,…của miền bắc.”

    Vì sao phải “phù tùm lum” vậy? Vì nhạc sĩ, với tác phẩm của họ, luôn là ân nhân của chúng ta. Khi chúng ta buồn, nhạc của họ an ủi ta. Khi chúng ta thất vọng, nhạc của họ khuyến khích ta. Khi chúng ta cô đơn, nhạc của họ bầu bạn cùng ta. Tác phẩm của nghệ sĩ đã từng khóc, từng cười, từng căm giận, từng chiến đấu cùng chúng ta, từng chia sẻ với dân tộc sự tủi nhục và vinh quang.

     Còn em, Trương Thái Du thân mến, em có biết em là ai không? Hãy thử tìm một đám đông (chẳng hạn như trong sân bóng đá) và hét to lên trong micro: “Tôi là Trương Thái Du đây” để xem quần chúng sẽ phản ứng như thế nào?

  Chương 3: Chết lịm trong nhau (Trương Thái Du)

Chopin và Dạ Khúc…

    Chopin viết tổng cộng 21 bản Dạ Khúc (Nocturne), trong đó hai bản cung Đô thăng thứ (20) và Đô thứ (21) chỉ xuất bản sau khi ông qua đời nên được gọi là Dạ Khúc vĩnh biệt.Nghe Chopin trong đêm lúc nào cũng mê lịm, chỉ muốn được chết nhẹ nhàng trong tiếng nhạc của ông.

Chương 4: Lại rõ uyên thâm (Trương Thái Du)

   Kính thưa anh Đào Hiếu,

     Trong bài viết này em có “làm nghệ thuật” đâu anh. Em chỉ mượn vấn đề TCS đang nóng để nêu ra quan điểm của mình: Muốn mang danh kẻ sĩ thì không nên xu thời. Vuốt ve đám đông cũng là một hình thức xu thời.

    Xin cảm ơn anh về những “dạy dỗ” nhạc cảm. Tuy nhiên “cảm” kiểu anh em hơi ngại. Trong 21 dạ khúc, Chopin chỉ có duy nhất một bài viết theo giọng Mi thứ nhưng nhịp C (4/4) được đánh số 19 (theo Brown - Index). Khó có thể nhầm lẫn bài này với valse số 7 (nhịp 3/4, nếu có). Hay anh nghĩ cả sàn nhảy đang đu slow “mùi” thì ta cũng phải đú theo, không nhất thiết bước đúng boston của dàn nhạc?

    Kính chúc anh sức khỏe.

    Lại cho Nikonian nói leo cái: Phản biện kiểu này, hoàn toàn không đánh tráo được vấn đề. Em nè, em chơi guitar dở ẹt, nên khi ôm đàn chơi Trịnh, em cứ nhè Mi thứ mà bấm. Vừa dễ lại vừa lành. Lại trộm nghĩ, nếu em nói đúng y bon nhịp phách các tác phẩm của Chopin (cái này dễ ợt, Google cái là xong), trong khi em chỉ biết mỗi hợp âm Mi thứ, liệu rằng em có nên bạo gan phê phán về nhạc thuật của Trịnh không hè?

 Chương 5: Lời khuyên y học của Dr. Nikonian

    Em dốt nhạc, lại a dua. Khi thì chê Trịnh một cái cho ra vẻ thức thời. Khi lại rung đùi khề khà nghe nhạc Trịnh. Sau khi nghiền ngẫm câu chuyện quá độc chiêu này, nổi máu nghề nghiệp, em xin khuyên:


     TƯ THẾ NGHE NHẠC TỐ
T NHẤT LÀ DỰA CỘT MÀ NGHE!

   Vâng, dựa cột mà nghe, trong tất cả các lĩnh vực mà mình kém am tường. Đừng tưởng thế giới blog là vườn hoang để ung dung múa gậy. Mà em muốn sống, sống nhăn răng, sống nham nhở để nghe Nocturne của Chopin cho nó đã. Chết thì hok nghe được, dù là “chết lịm” trong âm nhạc của Chopin, thì sang thiệt! Nhưng em hổng ham chết để chứng tỏ mình sang chút nào hết á!

   Em xin hết ạ!

   Lại thêm một lời khuyên y học nữa: Có một danh họa đã phán dịa nè: “Phàm là thợ giày, đừng nên vượt quá cái bàn chân”.

   Lại méo mó nghề nghiệp, cho em phăng thêm tí: “Phàm là BS Phụ khoa, thì đừng nên khám họng. Và ngược lại!”

*Chú thích: các tiêu đề là do Nikonian tự đặt   

  Nguồn : http://drnikonian.wordpress.com/2009/04/16/music-position/#comment-177 

   Cuộc tranh luận nầy thật thú vị !

1 nhận xét:

  1. "Cuộc tranh luận nầy thật thú vị !" ,đồng ý với nhận xét nầy của anh.Em nghiêng về phần phản biện của Đào Hiếu.

    Trả lờiXóa